Bản án về tội đánh bạc số 66/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 66/2022/HS-PT NGÀY 19/08/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 19/8/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 98/2022/TLPT-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo Đàm Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án Hình sự sơ thẩm số 38/2022/HS-ST ngày 27/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

Bị cáo có kháng cáo: Đàm Văn T; sinh năm 1972, tại huyện Q, tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: thôn T1, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/10; Con ông Đàm Văn Ư và bà Nguyễn Thị B (đều đã chết); có vợ là Đàm Thị H, sinh năm 1973; có 02 con, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2000.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 28/01/2021, bị Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi đánh bạc, bị cáo đã chấp hành xong ngày 29/01/2021.

Nhân thân:

+ Từ năm 1990 đến năm 1992 thực hiện nghĩa vụ quân sự.

+ Ngày 14/6/2007 bị Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi đánh bạc, bị cáo đã chấp hành xong ngày 18/6/2007.

+ Ngày 12/12/2007, bị Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi đánh bạc, bị cáo đã chấp hành xong ngày 13/12/2007.

+ Ngày 01/7/2015, bị Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi làm chủ lô, đề, bị cáo đã chấp hành xong ngày 02/7/2015.

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2016/HSST ngày 29/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 15 tháng cải tạo không giam giữ, được trừ thời gian tạm giữ 09 ngày bằng 27 ngày cải tạo không giam giữ, thời gian còn phải chấp hành là 14 tháng 03 ngày cải tạo không giam giữ và phạt bổ sung bị cáo 3.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, đã chấp hành xong bản án.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Trong vụ án còn có những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Phạm Văn T2, anh Ngô Văn D, anh Phạm Đăng T3, anh Đỗ Văn K, anh Lê Văn C, anh Nguyễn Duy S không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn T và anh Nguyễn Duy S, anh Ngô Văn D, anh Phạm Văn T2, anh Phạm Đăng T3, anh Đỗ Văn K và anh Lê Văn C quen biết nhau vì cùng tham gia Hội đồng ngũ. Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 13/01/2022 bị cáo T và anh T2, anh D, anh C đến nhà anh S, địa chỉ tại thôn T4, xã Q1, huyện Q, tỉnh Thái Bình để dự gặp mặt, liên hoan đồng ngũ theo lịch đã được thông báo. Do một số người chưa đến nên mọi người ngồi chơi nói chuyện, hát karaoke để chờ, khi đó T nhìn thấy bộ bài tú lơ khơ đã cũ để tại sạp gỗ nhà anh S, thì cầm trên tay đảo qua đảo lại. Lúc này, anh D cầm bộ bài từ T, lọc bỏ riêng các quân bài 10, J, Q, K, còn lại 36 quân bài gồm từ quân Át đến quân 9. Anh D nói với mọi người “Anh em mình làm tý văn nghệ”. T và anh T2, anh C hiểu ý anh D muốn rủ mọi người đánh bạc nên đồng ý, ngồi xuống chiếc chiếu đã trải sẵn trên sạp, thống nhất đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức “Đánh ba cây”, quy định mức độ sát phạt mỗi ván thấp nhất là 20.000 đồng, cao nhất không quá 50.000 đồng. Luật chơi như sau: Mỗi người chơi được chia lần lượt 03 quân bài ngẫu nhiên sau đó trừ cho bội số của 10 rồi tính tổng điểm làm kết quả so sánh. 36 quân bài từ Át tới 9 được tính điểm tương đương từ 01 đến 09 điểm. Nếu bằng điểm nhau thì so về chất của quân bài lớn nhất theo thứ tự ưu tiên lần lượt là chất Rô rồi đến Cơ, Tép, Bích. Trước khi chơi cần chọn một người chơi đứng ra làm người cầm chương. Nếu bài của người cầm chương lớn hơn điểm của người chơi thì sẽ thắng số tiền người chơi đặt cược. Ngược lại, nếu bài của người chơi hơn điểm của người cầm chương thì sẽ thắng gấp đôi số tiền đặt cược. Người chơi được 10 điểm sẽ cầm chương ở ván tiếp theo. Anh D là người cầm chương ở ván đầu tiên. T, anh D, anh T2, anh C đánh bạc được khoảng 15 phút thì anh K, anh T3 vào tham gia đánh bạc, giữ nguyên mức độ sát phạt và cách thức đánh bạc. Lúc này, vị trí của từng người đánh bạc tính từ người ngồi gần cửa ra vào phòng khách và theo chiều quay kim đồng hồ, người đầu tiên là anh C, tiếp theo lần lượt là anh T2, anh K, anh T3, T, anh D. Quá trình đánh bạc T, anh D, anh T2, anh T3, anh K, anh C chỉ sử dụng số tiền trên người để đánh bạc, không sử dụng tiền ở trong ví. Thấy mọi người đánh bạc trong nhà mình, anh S nói “Anh em đánh mấy phút rồi nghỉ nhé” thì anh K nói “Cho xin 10 phút”. T, anh D, anh T2, anh T3, anh K, anh C đánh bạc đến 10 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, lập biên bản, thu giữ vật chứng, quản lý trên chiếu bạc số tiền 1.170.000 đồng là tiền T, D, T2, T3, K và C khai dùng để đánh bạc, 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, 01 chiếu nhựa đã cũ. Tiến hành kiểm tra, quản lý trên người các đối tượng gồm: T 800.000 đồng, T2 2.200.000 đồng, D 600.000 đồng, T3 28.000 đồng, đều khai dùng để đánh bạc. Ngoài ra, cơ quan Công an còn quản lý trong ví của T 10.000.000 đồng, trong ví của K 1.600.000 đồng và trong ví của C 750.000 đồng - số tiền này T, anh K, anh C không sử dụng để đánh bạc.

Quá trình điều tra đã xác định tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 4.798.000 đồng. Cụ thể như sau:

+ Bị cáo Đàm Văn T mang theo khoảng 11.000.000 đồng, trong đó để riêng 10.000.000 đồng trong ví để nộp tiền bảo hiểm nhân thọ hằng năm cho chị Phạm Thị B1. Sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc, khi Công an bắt quả tang, quản lý 800.000 đồng trên người T dùng để đánh bạc.

+ Phạm Văn T2 mang theo 2.500.000 đồng sử dụng toàn bộ để đánh bạc, bị quản lý 2.200.000 đồng;

+ Ngô Văn D khai mang theo khoảng 700.000 đồng sử dụng toàn bộ để đánh bạc, bị quản lý số tiền 600.000 đồng;

+ Phạm Đăng T3 mang theo 228.000 đồng, sử dụng toàn bộ để đánh bạc, bị quản lý số tiền 28.000 đồng;

+ Đỗ Văn K mang theo 1.850.000 đồng, trong đó để riêng trong ví 1.600.000 đồng không sử dụng để đánh bạc, chỉ sử dụng 250.000 đồng để đánh bạc;

+ Lê Văn C mang theo khoảng 900.000 đồng, để riêng 750.000 đồng ở trong ví không sử dụng để đánh bạc, chỉ sử dụng khoảng 150.000 đồng để đánh bạc.

Các anh D, T2, T3, K, C chưa bị kết án và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, số tiền đánh bạc xác định là 4.798.000 đồng, vì vậy chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định của Bộ luật Hình sự, những người đó không bị xử lý trách nhiệm hình sự.

Đàm Văn T bị khởi tố, truy tố và bị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử. Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2022/HSST ngày 27/5/2022 tuyên bố: bị cáo Đàm Văn T phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đàm Văn T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/6/2022, bị cáo Đàm Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Đàm Văn T giữ nguyên nội dung kháng cáo. Bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm đã quy kết, thể hiện thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo với lý do: Bị cáo và những người khác trong lúc chờ họp đồng ngũ nên đã bột phát rủ nhau đánh bạc với tính chất vui chơi là chính, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, hiện nay hoàn cảnh gia đình có nhiều khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Đàm Văn T, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 38/2022/HSST ngày 27/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ về phần hình phạt đối với bị cáo T, giảm cho bị cáo 02 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Kháng cáo của bị cáo T gửi đến Tòa án trong thời hạn luật định là hợp lệ, được chấp nhận xem xét theo trình tự xét xử phúc thẩm.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Đàm Văn T: Tại phiên tòa, bị cáo T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã xác định. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ cơ quan điều tra đã thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.

Vì vậy, có đủ căn cứ xác định: Khoảng từ 10 giờ ngày 13/01/2022, tại nơi ở của Nguyễn Duy S ở thôn T4, xã Q1, huyện Q, tỉnh Thái Bình, trong lúc chờ gặp mặt, liên hoan đồng ngũ, bị cáo Đàm Văn T đã cùng với các anh Phạm Văn T2, Ngô Văn D, Lê Văn C, Phạm Đăng T3 và Đỗ Văn K thực hiện hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức “Đánh ba cây”, đến 10 giờ 30 phút cùng ngày thì bị cơ quan Công an phát hiện, thu giữ số tiền trên chiếu bạc và trên người các bị cáo dùng để đánh bạc là 4.798.000 đồng, trong đó số tiền đánh bạc của T là 1.000.000 đồng.

Bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc (chưa được xóa tiền sự), nay thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Đàm Văn T về tội “Đánh bạc” là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều 321. Tội Đánh bạc 1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

...

[3] Xét nội dung kháng cáo xin giảm hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo Đàm Văn T thì thấy:

Bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị xử lý hành chính và xét xử về hành vi đánh bạc, tuy nhiên bị cáo có một tiền sự đã được sử dụng để định tội đối với bị cáo. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Sau khi phạm tội và quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình; bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội nhân dân Việt Nam. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo T được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 09 tháng tù là có phần nghiêm khắc.

Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị cáo T đã nộp số tiền phạt bổ sung 10.000.000 đồng và tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quyết định của bản án sơ thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, đây là tình tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới đối với bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Mặt khác xét thấy bị cáo phạm tội trong trường hợp chờ họp đồng ngũ, tính chất ít nghiêm trọng, giản đơn, không có sự bàn bạc, chuẩn bị từ trước, thời gian thực hiện tội phạm ngắn, tính chất sát phạt không cao.

Vì vậy cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo T, sửa bản án hình sự sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Đàm Văn T là phù hợp. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc xin được hưởng án treo.

[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận một phần nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Chấp nhận một phần kháng cáo bị cáo Đàm Văn T. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 38/2022/HSST ngày 27/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình về hình phạt đối với bị cáo Đàm Văn T.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đàm Văn T 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

[2] Về án phí phúc thẩm: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: bị cáo Đàm Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 19/8/2022./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 66/2022/HS-PT

Số hiệu:66/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;