Bản án về tội đánh bạc số 56/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 56/2022/HS-PT NGÀY 25/01/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 25 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 842/2020/TLPT-HS ngày 09 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Đặng Sĩ B và các bị cáo khác, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2018/HSST ngày 23 tháng 5 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Đặng Sĩ B, sinh năm 1991; giới tính: Nam; nơi ĐKHKTT: thôn Thị T, xã Tân Ph, huyện Ân Th, tỉnh Hưng Yên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Đặng Xuân Tr và bà Đặng Thị Q; có vợ là Nguyễn Thị D và có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến ngày 08/02/2018 được thay thế bằng biện pháp Bảo lĩnh; vắng mặt.

2. Đỗ Văn X, sinh năm 1987; giới tính: Nam; nơi ĐHKTT và chỗ ở: thôn Đông Ph1, xã Ngọc L, huyện Yên M, tỉnh Hưng Yên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 4/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Đỗ Văn Ch (đã chết) và bà Đặng Thị A; có vợ là Đinh Thị L1 và có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/01/2018 đến ngày 20/01/2018 được thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

3. Ngô Dương T1; sinh năm 1992; giới tính: Nam; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn Phúc T2, xã Tân Ph, huyện Ân Th, tỉnh Hưng Yên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Ngô Văn Th1 và bà Trần Thị T3; có vợ là Đỗ Khánh H và có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/01/2018 đến ngày 20/01/2018 thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; vắng mặt.

4. Đặng Văn H1, sinh năm 1994; giới tính: Nam; nơi cư trú: thôn Bồng L2, xã Thanh Ngh, huyện Thanh L3, tỉnh Hà Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc; Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Đặng Văn L4 và bà Vũ Thị T4; ; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/01/2018 đến ngày 20/01/2018 thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

Ngoài ra vụ án còn có các bị cáo Lê Văn Th2, Lê Văn T5, Chu Đình H2, Lại Đăng T6, Đặng Sĩ Q1, Vũ Minh H3, Hà Văn Q2 không kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 11/01/2018, 15 công nhân của Công ty TNHH Hansung Haram Việt Nam, sản xuất, nhuộm sợi và chỉ, thuộc khu công nghiệp Phố Nối B, thôn Thanh Xá, xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên M, tỉnh Hưng Yên, gồm: Đặng Sĩ B, Đặng Sĩ Q1, Ngô Dương T1, Lê Văn Th2, Lê Văn T5, Đỗ Văn X, Chu Đình H2, Lại Đăng T6, Vũ Minh H3, Đặng Văn H1, Hà Văn Q2; Nguyễn Thành L5 sinh năm 1995 ở thôn 3, xã Hải Hà, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa; Trương Tuấn H3 sinh năm 1985 ở tổ 5, phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, đến phòng chứa thuốc nhuộm của công ty để nghỉ trưa. Tại đây một số công nhân đã rủ nhau đánh bạc dưới hình thức chơi xóc đĩa sát phạt nhau bằng tiền. Đặng Sĩ B vào bếp ăn của công ty lấy 1 chiếc bát và 1 chiếc đĩa bằng sứ màu trắng, Đỗ Văn X lấy 1 vỏ bao thuốc lá vinataba và lấy kéo ở tổ nhuộm chỉ cắt 04 quân bài hình tròn, một mặt màu vàng, một mặt màu trắng rồi đưa cho B, các đối tượng đứng và ngồi xung quanh tấm bìa cát tông trải sẵn trên nền nhà, B xóc cái để mọi người đánh bạc.

Hình thức đánh bạc như sau: Người xóc cái cho 04 quân bài vào đĩa úp bát lên rồi xóc cái, những người tham gia đánh bạc tùy chọn đặt tiền vào bên lẻ hoặc bên chẵn, nếu có hai quân bài hoặc bốn quân bài cùng màu là chẵn, người đặt tiền bên chẵn thắng bạc, nếu có ba quân bài cùng màu và một quân bài khác màu là lẻ, người đặt tiền bên lẻ thắng bạc. Người làm cái thu tiền bên thua và trả tiền cho những người bên thắng bằng số đã đặt. Tham gia đánh bạc gồm 11 đối tượng là: Đặng Sĩ B, Đặng Sĩ Q1, Ngô Dương T1, Lê Văn Th2, Lê Văn T5, Đỗ Văn X, Chu Đình H2, Lại Đăng T6, Vũ Minh H3, Đặng Văn H1, Hà Văn Q2, đến 12 giờ 30 phút cùng ngày, trong khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị Phòng cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên phối hợp cùng Công an huyện Yên Mỹ và Công an xã Nghĩa Hiệp bắt quả tang. Vật chứng thu giữ loà: 01 bát con bằng sứ màu trắng;

01 đĩa sứ màu trắng; 01 tấm bìa catton kích thước (2,3x0,7)m; 04 quân bài hình tròn có một mặt màu vàng, một mặt màu trắng; Tiền thu tại chiếu bạc 37.750.000 đồng; Tiền thu trên người các đối tượng 17.650.000 đồng gồm: Đặng Sỹ B 2.700.000 đồng, Đặng Sỹ Q1 1.500.000 đồng, Đỗ Văn X 2.500.000 đồng, Chu Đình H2 300.000 đồng, Lại Đăng T6 1.400.000 đồng, Lê Văn Th2 4.250.000 đồng, Hà Văn Q2 500.000 đồng, Đặng Văn H1 600.000 đồng, Lê Văn T5 1.200.000 đồng, Hồ Đắc Th3 650.000 đồng, Nguyễn Thành L5 1.900.000 đồng, Trương Tuấn H3 150.000 đồng; 13 điện thoại các loại.

Quá trình điều tra đã làm rõ: Tổng số tiền 11 đối tượng nêu trên dùng đánh bạc là 52.700.0đồng, trong đó tiền thu trên chiếu bạc 37.750.000 đồng, tiền thu trên người các đối tượng sẽ dùng đánh bạc 14.950.000 đồng (gồm Đặng Sỹ Q1 1.500.000 đồng, Đỗ Văn X 2.500.000 đồng, Chu Đình H2 300.000 đồng, Lại Đăng T6 1.400.000 đồng, Lê Văn Th2 4.250.000 đồng, Hà Văn Q2 500.000 đồng, Đặng Văn H1 600.000 đồng, Lê Văn T5 1.200.000 đồng). Đối với các anh Hồ Đắc Th3, Trương Tuấn H3, Nguyễn Thành L5 và Đặng Đình Th4 không tham gia đánh bạc, Cơ quan điều tra đã không xem xét xử lý.

Tại Cơ quan điều tra các bị cáo Đặng Sĩ B, Đỗ Văn X, Ngô Dương T1, Lê Văn Th2, Lê Văn T5, Chu Đình H2, Lại Đăng T6, Đặng Sĩ Q1, Vũ Minh H3, Đặng Văn H1 và Hà Văn Q2 khai nhận hành vi phạm tội của mình và đồng phạm.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2018/HSST ngày 23/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Đặng Sĩ B, Đỗ Văn X, Ngô Dương T1, Đặng Văn H1 đều phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm v, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Đặng Sĩ B 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến 08/02/2018. Phạt bổ sung bị báo 15.000.000đ (mười năm triệu đồng) sung quỹ nhà nước.

Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Đỗ Văn X 03 (ba) năm tù 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến 20/01/2018. Phạt bổ sung bị báo 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sung quỹ nhà nước.

Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Ngô Dương T1 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến 20/01/2018.

Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015; xử phạt bị cáo Đặng Văn H1 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến 20/01/2018.

Phạt bổ sung các bị cáo Đỗ Văn X, Ngô Dương T1, Đặng Văn H1, mỗi bị cáo bị báo 10.000.000đ (mười triệu đồng) sung quỹ nhà nước.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác; hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/5/2018, bị cáo Đặng Sĩ B và bị cáo Đỗ Văn X kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 29/5/2018, các bị cáo Ngô Dương T1, Đặng Văn H1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được cải tạo tại địa phương.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Các bị cáo Đặng Sĩ B, Ngô Dương T1 vắng mặt.

Các bị cáo Đỗ Văn X, Đặng Văn H1 giữ nguyên nội dung kháng cáo, các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại Hà Nội có quan điểm: Các bị cáo B, X tích cực thực hiện tội phạm, tại cấp phúc thẩm bị cáo B có tình tiết giảm nhẹ mới đã nộp tiền phạt 15 triệu đồng và tiền án phí sơ thẩm, đây là các tình tiết giảm nhẹ mới, do đó có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giảm một phần hình phạt cho bị cáo B.

Bị cáo X có vai trò thấp hơn bị cáo B, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 03 năm 03 tháng tù là có phần nghiêm khắc, do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo X.

Bị cáo T1 có vai trò thấp hơn các bị cáo B, X, mức hình phạt 03 năm tù đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo T1.

Bị cáo H1 có thêm tình tiết giảm nhẹ mới: bị cáo đã nộp 10 triệu đồng tiền phạt và 200.000 đồng án phí sơ thẩm, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mất sớm, ông nội bị cáo có công với cách mạng, bản thân bị cáo bị tai nạn, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, số tiền đánh bạc ít, do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cho H1 được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách của án treo.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, tài liệu, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử không có khiếu nại về hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng, nên các tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ là hợp pháp. Kháng cáo của các bị cáo Đặng Sĩ B, Đỗ Văn X, Ngô Dương T1, Đặng Văn H1 trong hạn luật định, nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục xét xử phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Đặng Sĩ B, Ngô Dương T1 vắng mặt đã nhận được triệu tập của Tòa án. Vụ án đã được đưa ra xét xử nhiều lần nhưng các bị cáo có đơn xin hoãn phiên tòa, do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 290 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt các bị cáo B, T1.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Đỗ Văn X xuất trình đơn mời luật sư Hằng bào chữa cho bị cáo và kèm theo đơn xin hoãn phiên tòa của luật sư Hằng, Hội đồng xét xử thấy trong quá trình từ khi thụ vụ án bị cáo X không mời luật sư mà đến phiên tòa phúc thẩm bị cáo mới mời luật sư và luật sư có đơn xin hoãn phiên tòa là gây khó khăn cho Hội đồng xét xử trong việc giải quyết vụ án, mặt khác bị cáo X không thuộc trường hợp bắt buộc phải có luật sư bào chữa, bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm hình phạt, do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận tài liệu mời luật sư của bị cáo X.

[2] Về nội dung:

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Đỗ Văn X, Đặng Văn H1 thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của chính các bị cáo tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong vụ án, phù hợp với B bản phạm tội quả tang, các vật chứng thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Với động cơ, mục đích vụ lợi, khoảng 12 giờ ngày 11/01/2018 tại phòng chứa thuốc nhuộm của Công ty Hansung Haram Việt Nam ở thôn Thanh Xá, xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên M, tỉnh Hưng Yên, Đặng Sĩ B, Đỗ Văn X, Ngô Dương T1, Đặng Văn H1, Đặng Sĩ Q1, Lê Văn Th2, Lê Văn T5, Chu Đình H2, Lại Đăng T6, Vũ Minh H3, Hà Văn Q2 đã có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh xóc đĩa sát phạt nhau bằng tiền đến 12 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Phòng cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định số tiền các đối tượng dùng đánh bạc là 52.700.000 đồng, trong đó thu trên chiếu bạc là 37.750.000 đồng, thu trên người các đối tượng là 14.950.000 đồng.

Do có hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Đặng Sĩ B, Đỗ Văn X, Ngô Dương T1, Đặng Văn H1 Đặng Sĩ Q1, Lê Văn Th2, Lê Văn T5, Chu Đình H2, Lại Đăng T6, Vũ Minh H3, Hà Văn Q2 về tội “Đánh bạc” theo khoản 2, khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Đặng Sĩ B, Đỗ Văn X, Ngô Dương T1 và Đặng Văn H1 có kháng cáo. Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Hành vi phạm tội của các bị cáo Đặng Sĩ B, Đỗ Văn X, Ngô Dương T1 và Đặng Văn H1 là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác, gây thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến cuộc sống, hạnh phúc gia đình các bị cáo, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo đều là những người có năng lực nhận biết hành vi của bản thân là vi phạm pháp luật bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng do vụ lợi, vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, hành vi của các bị cáo cần được xử lý nghiêm, nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

Xét kháng cáo của bị cáo Đặng Sĩ B, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo B là người xóc cái, bị cáo X chuẩn bị và cắt quân bài, nên xác định bị cáo B là người có vai trò đầu vụ, tiếp sau đến bị cáo X vai trò thứ hai, các bị cáo còn lại là đồng phạm giản đơn, giữ vai trò như nhau trong vụ án. Các bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo B tham gia quân ngũ đạt danh hiệu học viên giỏi nên được áp dụng điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo B 03 năm 06 tháng tù là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Đặng Sĩ B có thêm tài liệu thể hiện bị cáo đã nộp 15.000.000 đồng tiền phạt bổ sung và 200.000 đồng tiền án phí sơ thẩm đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo B.

Bị cáo X có vai trò sau bị cáo B, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, hoàn cảnh gia đình khó khăn, gia đình có công với cách mạng. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 03 năm 03 tháng tù là có phần nghiêm khắc, do đó có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn X, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Ngô Dương T1 có vai trò thấp hơn các bị cáo B, X. Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo T1 03 năm tù là có phần nghiêm khắc. Do đó có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo T1.

Bị cáo Đặng Văn H1 phạm tội với vai trò đồng phạm có mức độ, bị cáo thành khẩn khai báo, tại cấp phúc thẩm bị cáo có thêm các tình tiết giảm nhẹ mới: bị cáo đã nộp 10.000.000 đồng tiền phạt bổ sung và 200.000 đồng tiền án phí sơ thẩm, bị cáo có ông nội có công với cách mạng, bố bị cáo mất sớm, bản thân bị cáo bị tai nạn lao động, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Xét thấy bị cáo H1 có nơi cư trú ổn định, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, do vậy không cần thiết cách ly bị cáo ra ngoài xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo, chịu sự giám sát của gia đình, chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đặng Sĩ B, Đỗ Văn X, Ngô Dương T1 và Đặng Văn H1; sửa quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2018/HSST ngày 23/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên đối với các bị cáo Đặng Sĩ B, Đỗ Văn X, Ngô Dương T1 và Đặng Văn H1, cụ thể như sau:

Tuyên bố: Các bị cáo Đặng Sĩ B, Đỗ Văn X, Ngô Dương T1 và Đặng Văn H1 phạm tội “Đánh bạc” Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm v, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Đặng Sĩ B 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến 08/02/2018.

Phạt bổ sung bị cáo Đặng Sĩ B 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Đỗ Văn X 33 (ba mươi ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến 20/01/2018.

Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Ngô Dương T1 33 (ba mươi ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến 20/01/2018.

Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự 2015; xử phạt bị cáo Đặng Văn H1 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 05 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (25/01/2022).

Giao bị cáo Đặng Văn H1 cho Ủy ban nhân dân xã Thanh Nghị, huyện Thanh L3, tỉnh Hà Nam để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Phạt bổ sung các bị cáo Đỗ Văn X, Ngô Dương T1, Đặng Văn H1, mỗi bị cáo bị báo 10.000.000đ (mười triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Ghi nhận bị cáo Đặng Sĩ B đã nộp 15.200.000đ (Mười lăm triệu hai trăm ngàn đồng) tiền phạt bổ sung và tiền án phí hình sự sơ thẩm tại B lai số AA/2014/0001823 ngày 09/4/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hưng Yên.

Ghi nhận bị cáo Đặng Văn H1 đã nộp 10.200.000đ (Mười triệu hai trăm ngàn đồng) tiền phạt bổ sung và tiền án phí sơ thẩm tại Biên lai số AA/2021/0000110 ngày 25/01/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hưng Yên.

2. Về án phí: Các bị cáo Đặng Sĩ B, Đỗ Văn X, Ngô Dương T1, Đặng Văn H1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 56/2022/HS-PT

Số hiệu:56/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;