Bản án về tội đánh bạc số 46/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NĐ, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 46/2022/HS-ST NGÀY 07/07/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 07 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/QĐXXST–HS ngày 07 tháng 6 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 14/2022/QĐST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1 - Họ và tên: Nguyễn Văn T. Tên gọi khác: Nguyễn Xuân T. Sinh năm 1968; Nơi sinh: Huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 11, xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (chết) và bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1951; Có vợ họ và tên: Lê Thị O và có 03 con; tiền sự, tiền án: Không. Nhân thân: Ngày 20/01/2005, bị TAND huyện NĐ xử phạt 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”, chấp hành xong bản án ngày 01/6/2005; Ngày 14/5/2008, bị TAND huyện NĐ xử phạt 09 tháng tù và phạt bổ sung 3.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, hiện đã chấp hành xong hình phạt; Ngày 30/11/2009, bị TAND huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng và phạt bổ sung 5.000.000 đồng, về tội “Đánh bạc”, hiện đã chấp hành xong hình phạt; Ngày 29/9/2016, bị TAND huyện NĐ xử phạt 10 tháng tù và phạt bổ sung 3.000.000 đồng, về tội “Đánh bạc”, hiện đã chấp hành xong hình phạt; Ngày 11/4/2017, bị TAND huyện NĐ xử phạt 15 tháng tù, tổng hợp hình phạt bản án ngày 29/6/2016 1 của TAND huyện NĐ thành 25 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt của các bản án ngày 18/3/2018; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/3/2022 cho đến ngày 11/3/2022 được tại ngoại. Có mặt.

2 - Họ và tên: Phạm Văn H. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1989; Nơi sinh: Huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 10, xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm T (chết) và bà Từ Thị M, sinh năm 1960; Có vợ họ và tên: Tùy Thị D và có 03 con; tiền sự, tiền án: Không. Nhân thân: Ngày 23/5/2007, bị Tòa án nhân dân huyện NĐ xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong bản án ngày 23/11/2008; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/3/2022 cho đến ngày 11/3/2022 được tại ngoại. Có mặt.

3 - Họ và tên: Trần Văn H. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1993; Nơi sinh: Huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 11, xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L, sinh năm 1965 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1968; Có vợ họ và tên: Phạm Thị H và có 01 con; tiền sự, tiền án: Không. Nhân thân: Ngày 22/02/2017, bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù và phạt bổ sung 3.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”. Chấp hành xong bản án ngày 15/9/2017; Ngày 26/11/2018, bị TAND huyện NĐ xử phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, hiện đã chấp hành xong hình phạt. Chấp hành xong bản án ngày 02/7/2020; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01/5/2022 cho đến nay. Có mặt.

4 - Họ và tên: Lê Hữu T. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1981; Nơi sinh: Huyện HS, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Thiên Nhẫn, xã Sơn Tiến, huyện HS, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê S, sinh năm 1944 và bà Võ Thị T, sinh năm 1948; Có vợ họ và tên: Võ Thị H và có 02 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/3/2022 cho đến ngày 13/3/2022 được tại ngoại. Có mặt.

5 - Họ và tên: Nguyễn Đức T. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1991; Nơi sinh: Huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 10, xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức M, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1970; Vợ họ tên Lang Thị Y, chưa có con; tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/3/2022 cho đến ngày 10/3/2022 được tại ngoại. Có mặt.

6 - Họ và tên: Hà Văn H. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1976; Nơi sinh: Huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 11, xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà H (chết) và bà Phạm Thị N (chết); Có vợ họ và tên: Phạm Thị H và có 02 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

7 - Họ và tên: Hồ Đình T. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1989; Nơi sinh: Huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 3, xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Đình Q, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1961; Có vợ họ và tên: Phạm Thị H và có 01 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/3/2022 cho đến ngày 11/3/2022 được tại ngoại. Có mặt.

8 - Họ và tên: Phạm T. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1986; Nơi sinh: Huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 10, xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm P, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1958; Có vợ họ và tên: Lê Thị V và có 01 con; tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/3/2022 cho đến ngày 11/3/2022 được tại ngoại. Có mặt.

Người làm chứng: Anh Hà Văn Lực. Sinh năm 1986. Nơi cư trú: Xóm 11, xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 01 tháng 3 năm 2022, sau khi được Phạm T và Hà Văn H hỏi xem có chỗ nào đánh bạc hay không thì Nguyễn Văn T sử dụng điện thoại di động gọi điện cho Phạm Văn H để rủ đi sang huyện HS, tỉnh Hà Tĩnh để đánh bạc thì được Hiển đồng ý. Sau đó, Hiển gọi điện rủ Nguyễn Đức T và Hồ Đình T cùng đi đánh bạc thì được Thành và Tuấn đồng ý, còn Tình gọi điện cho Lê Hữu T để hỏi về việc có mấy người qua bên tỉnh Hà Tĩnh đánh bạc được không thì được Thông đồng ý và hẹn ở trang trại thuộc xã Sơn Tiến, huyện HS, tỉnh Hà Tĩnh để đánh bạc. Tình gọi điện để thông báo cho Hiền và Phạm T về việc đi sang tỉnh Hà Tĩnh đánh bạc. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày thì lần lượt Hiển, Nguyễn Đức T, Tình, Hiền và Phạm T đi đến khu vực trang trại thuộc xã Sơn Tiến, huyện HS, tỉnh Hà Tĩnh thì gặp Thông đã chờ sẵn ở đó. Lúc này, Thông đưa cho Hiển một bộ bài tú lơ khơ màu đỏ. Sau khi Hiển cắt xong 04 còn xúc xắc thì thấy không an toàn nên các đối tượng cùng rủ nhau đi sang xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An để đánh bạc. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Thông dẫn Hiển, Nguyễn Đức T, Tình, Hiền và Phạm T đến trang trại bỏ hoang thuộc xóm 12, xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Thông đi vào ngôi nhà trong trang trại lấy một chiếc bạt và 02 bộ bát đĩa rồi đi ra bãi đất trống của trang trại nơi các đối tượng khác đang chờ.

Sau khi Thông đi ra và cùng với các đối tượng thống nhất cùng nhau đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, thắng thua được tính bằng tiền, Hiển là người cầm cái. Sau khi cùng nhau đánh bạc được một lúc thì Hiển, Tình, Hiền, Nguyễn Đức T và Phạm T mỗi người nộp 100.000 đồng tiền hồ cho Thông. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, Trần Văn H và Hà Văn Lực đi đến trang trại thì thấy các đối tượng đang đánh bạc nên Hiếu vào cùng tham gia đánh bạc còn Lực ngồi xem. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Hồ Đình T đến và cùng tham gia đánh bạc cùng. Sau khi, Hồ Đình T và Trần Văn H đánh bạc được một lúc thì mỗi người đóng 100.000 đồng tiền hồ cho Hiển. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, khi Hiển, Thông Nguyễn Đức T, Tình, Hiền, Phạm T, Hiếu và Tuấn đang đánh bạc thì bị Công an xã KS phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hà Văn H, Nguyễn Đức T đồng thời thu giữ trên chiếu bạc số tiền 12.375.000 đồng và một số đồ vật tài liệu khác. Trong quá trình bắt giữ các đối tượng Nguyễn Văn T, Hồ Đình T, Trần Văn H, Lê Hữu T, Phạm Văn H, Phạm T, Lê Hữu T bỏ chạy.

Ngày 02 tháng 3 năm 2022, Nguyễn Văn T, Phạm Văn H, Phạm T và Hồ Đình T đã đến Cơ quan điều tra xin đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Ngày 04 tháng 3 năm 2022, Cơ quan điều tra đã thi hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Hữu T.

Ngày 01 tháng 5 năm 2022, Cơ quan điều tra - Công an huyện NĐ bắt Trần Văn H để tạm giam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định được tổng số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc là: 16.725.000 đ (Mười sáu triệu bảy trăm hai mươi lăm nghìn đồng), Trong đó: Phạm Văn H là người cầm cái và sử dụng 5.900.000 đồng để đánh bạc và thu 200.000 đồng tiền hồ; Nguyễn Văn T sử dụng số tiền 2.950.000 đồng để đánh bạc; Nguyễn Đức T sử dụng 2.600.000 đồng để đánh bạc; Hà Văn H sử dụng số tiền 2.325.000 đồng để đánh bạc; Trần Văn H sử dụng số tiền 1.000.000 đồng để đánh bạc; Hồ Đình T sử dụng số tiền 800.000 đồng để đánh bạc; Phạm T sử dụng số tiền 650.000 đồng để đánh bạc; Lê Hữu T sử dụng số tiền 500.000 đồng để đánh bạc và thu 500.000 đồng tiền hồ.

Cách thức đánh xóc đĩa: Người cầm cái đặt 04 con xúc xắc vào một chiếc đĩa sứ và dùng 01 chiếc bát sứ đậy lại và tiến hành xóc rồi đặt xuống chiếu. Lúc này, những người chơi đặt cược cửa chẵn hoặc cửa lẻ. Theo quy định thì số tiền đặt cược tối thiểu trong mỗi ván là 50.000 đồng, số tiền đặt cược tối đa không hạn chế. Khi đã thống nhất các cửa đánh, người cầm cái sẽ mở bát ra, nếu số lượng con xúc xắc nằm sấp hoặc nằm ngửa là hai hoặc bốn thì người đặt cửa chẵn thắng. Lúc đó, những người đặt cửa lẻ sẽ trả cho người cầm cái số tiền bằng số tiền họ đã đặt cược, còn người cầm cái sẽ trả cho người đặt cửa chẵn số tiền bằng số tiền họ đã đặt cược. Nếu số lượng con xúc xắc nằm sấp hoặc nằm ngửa là một hoặc ba thì người đặt cửa lẻ thắng. Lúc đó, những người đặt cửa chẵn sẽ trả cho người cầm cái số tiền bằng số tiền họ đã đặt cược, còn người cầm cái sẽ trả cho người đặt cửa lẻ số tiền bằng số tiền họ đã đặt cược Cáo trạng số 38/CT-VKSNĐ ngày 27 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An truy tố các bị cáo Phạm Văn H, Lê Hữu T, Nguyễn Đức T, Nguyễn Văn T, Hà Văn H, Phạm T, Trần Văn H và Hồ Đình T về tội “Đánh bạc”, theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn H, Lê Hữu T, Nguyễn Đức T, Nguyễn Văn T, Hà Văn H, Phạm T, Trần Văn H và Hồ Đình T phạm tội “Đánh bạc”.

Về hình phạt: Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T từ 08 đến 10 tháng tù. Bị cáo Trần Văn H mức án từ 07 đến 09 tháng tù. Bị cáo Phạm Văn H mức án từ 07 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Bị cáo Lê Hữu T mức án từ 07 đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Các bị cáo Nguyễn Đức T, Hà Văn H, Hồ Đình T, Phạm T mức án từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.

Miễn hình phạt bổ sung và khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo.

Về vật chứng: Tịch thu và nộp ngân sách Nhà nước:

+ Số tiền: 16.725.000 đồng là số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme C3;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi MI6X;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105;

- Tịch thu và tiêu hủy:

+ 01 chiếc bạt bằng nilon hai mặt; 02 chiếc đĩa sứ màu trắng; 02 chiếc bát sứ màu trắng; 04 quân xúc xắc hình tròn.

Tại phiên tòa, các bị cáo nhất trí với bản cáo trạng cũng như luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không có tranh luận gì.

Các bị cáo Nguyễn Đức T không nói lới nói sau cùng.

Các bị cáo còn lại nói lời nói sau cùng: Các bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện NĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp lệ.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, người làm chứng vắng mặt. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là đúng quy định.

[3] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai nhận trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Có đủ căn cứ kết luận: Từ khoảng 14 giờ đến 16 giờ 30 phút ngày 01/3/2022, tại trang trại bỏ hoang thuộc xóm 12, xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Phạm Văn H, Lê Hữu T, Nguyễn Đức T, Nguyễn Văn T, Hà Văn H, Phạm T, Trần Văn H và Hồ Đình T đang tham gia đánh bạc trái phép, thắng thua tính bằng tiền dưới hình thức “xóc đĩa” thì bị phát hiện bắt quả tang. Tổng số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc là 16.725.000 đ (Mười sáu triệu bảy trăm hai mươi lăm nghìn đồng). Cáo trạng truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về vai trò, hình phạt chính đối với các bị cáo:

Vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hành vi mà các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn xã hội và nếp sống văn minh, đánh bạc là căn nguyên phát sinh các tội phạm khác, làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình yên, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Do đó cần xử lý nghiêm.

Vụ án có đồng phạm, nhưng mang tích chất giản đơn. Cần đánh giá vai trò của từng bị cáo.

Bị cáo Tình là người rủ rê bị cáo Hiển đánh bạc, là người liên lạc tích cực để phục vụ cho việc đánh bạc, số tiền đánh lớn thứ hai. Bị cáo nhân thân xấu, đã 5 lần bị Tòa án xét xử cùng về tội đánh bạc.

Bị cáo Hiển là người rủ rê bị cáo Phạm T tham gia đánh bạc, bị cáo sử dụng số tiền đánh bạc lớn nhất, quá trình đánh bạc là người cầm cái; bị cáo T tuy là người sử dụng số tiền đánh bạc ít nhưng là người chuẩn bị công cụ phương tiện (bạt, bát, bài), người liên lạc tích cực trong việc đánh bạc, quá trình đánh bạc thu tiền hồ; bị cáo Hiếu sử dụng số tiền đánh bạc 1.000.000 đồng nhưng là người có nhân thân xấu. Sau khi xảy ra sự việc thì bỏ trốn, bắt theo lệnh bắt tạm giam.

Bị cáo Nguyễn Đức T và bị cáo Hiền, hai bị cáo sử dụng số tiền gần gần bằng nhau. Còn hai bị cáo Tuấn và bị cáo Phạm T sử dụng số tiền ít nhất. Các bị cáo giữ vai trò thứ yếu trong vụ án.

Trong quá trình điều tra, tại phiên tòa tất cả các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; Các bị cáo Lê Hữu T, Nguyễn Đức T, Hà Văn H, Phạm T và Hồ Đình T lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Sau khi phạm tội các bị cáo Nguyễn Văn T, Phạm Văn H, Phạm T và Hồ Đình T đã tự nguyện lên đầu thú;

Bị cáo Nguyễn Đức T có ông nội là Nguyễn Đức Huề được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì;

Bị cáo Nguyễn Văn T có bố đẻ là Nguyễn Văn Hoành mẹ là Trần Thị Xuân được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất; bà nội Ngô Thị Chiêm được UBND tỉnh Nghệ An tặng Bằng khen;

Bị cáo Lê Hữu T có mẹ tham gia dân công hỏa tuyến, có bố được tặng thưởng kỷ niêm chương của cựu chiến binh Việt Nam, Bị cáo Hiếu có ông ngoại Phạm Văn Khẩn được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì, bà nội Trần Thị Con, bà ngoại Hà Thị Đôi, ông nội Trần Hường được tặng bằng khen.

Về hình phạt chính áp dụng đối với các bị cáo:

Đối với bị cáo Tình là người là người có nhân thân xấu, 5 lần đã bị Tòa án xét xử đều về tội đánh bạc. Bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; đối với bị cáo Hiếu khi Công an bắt quả tang bỏ trốn, bị bắt tạm giam từ ngày 01/5/2022 cho đến nay. Bị cáo có nhân thân xấu. Xét thấy cần xử nghiêm, cách ly hai bị cáo Tình và Hiếu ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung, đặc biệt là trong thời gian gần đây tệ nạn đánh bạc có xu hướng gia tăng trên địa bàn huyện NĐ.

Đối với bị cáo Hiển và bị cáo Thông cần xử lý nghiêm. Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo Thông có nhân thân tốt; không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù mà có khả năng tự cải tạo tại địa phương nên việc cho bị cáo được hưởng án treo không ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, không ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Đối với các bị cáo Nguyễn Đức T, Hà Văn H, Hồ Đình T, Phạm T có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, giao các bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng đủ nghiêm minh, không ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Các bị cáo còn lại không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Số tiền: 13.475.000 đồng là số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc (Trong đó: số tiền 12.375.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc khi bắt quả tang, số tiền:

200.000 đồng do Trần Văn H tự nguyện giao nộp, số tiền 900.000 đồng do Hồ Đình T tự nguyện giao nộp). Số tiền 3.250.000 đồng là số tiền đánh bạc và thắng bạc của Nguyễn Văn T. Hiện đang bảo quản tại Kho bạc nhà nước huyện NĐ theo biên bản giao nhận tài sản và Phiếu nhập kho các ngày 11/3/2022 và 10/5/2022 giữa Công an huyện NĐ với Kho bạc Nhà nước huyện NĐ. Đây là các khoản tiền liên quan đến hành vi đánh bạc cần tịch thu và nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 chiếc bạt bằng nilon màu xanh cam, kích thước 2x2m; 02 chiếc đĩa sứ màu trắng; 02 chiếc bát sứ màu trắng; 04 quân xúc xắc hình tròn, màu đỏ trắng. Đây là các vật chứng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu và tiêu hủy.

- 06 chiếc điện thoại di động gồm:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme C3, vỏ màu đỏ, màn hình bị vỡ, gắn thẻ sim có số thuê bao 0399587806, số Imei1: 860750043209690, Imei2: 860750043209682, máy đã qua sử dụng, chất lượng không kiểm tra;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7, vỏ màu vàng, màn hình bị vỡ, gắn thẻ sim có số thuê bao 0356920046, số Imei: 358800084031542, máy đã qua sử dụng, chất lượng không kiểm tra;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi MI6X, vỏ màu xanh, màn hình bị vỡ, gắn thẻ sim có số thuê bao 03385519583, số Imei1: 869067034430610, Imei2: 86906703430628, máy đã qua sử dụng, chất lượng không kiểm tra;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, vỏ màu xanh, gắn thẻ sim có số thuê bao 0336198178, số Imei: 358902077262132, máy đã qua sử dụng, chất lượng không kiểm tra;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel, vỏ màu đen, gắn thẻ sim có số thuê bao 0986705166, số Imei1: 355149118509641, Imei2: 355149118509658, máy đã qua sử dụng, chất lượng không kiểm tra;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, vỏ màu đen, gắn thẻ sim có số thuê bao 0365653343, Imei1: 358561087268891, Imei2: 358566086690896, máy đã qua sử dụng, chất lượng không kiểm tra;

Đây là các điện thoại mà các bị cáo sử dụng để liên lạc vào việc đánh bạc, còn giá trị sử dụng cần tịch thu và nộp ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Các đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và điều luật áp dụng: Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn H, Lê Hữu T, Nguyễn Đức T, Nguyễn Văn T, Hà Văn H, Phạm T, Trần Văn H và Hồ Đình T phạm tội “Đánh bạc”.

1.1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Văn T (tên gọi khác Nguyễn Xuân T): 08 (tám) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian từ ngày 02/3/2022 cho đến ngày 11/3/2022.

- Bị cáo Trần Văn H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 1/5/2022.

1.2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Phạm Văn H 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 (mười bốn) tháng.

1.3. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Lê Hữu T 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 (mười bốn) tháng.

Thời gian thử thách của các bị cáo tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phạm Văn H cho UBND xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Giao bị cáo Lê Hữu T cho UBND xã Sơn Tiến, huyện HS, tỉnh Hà Tĩnh nơi các bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

1.4. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Đức T 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ, nhưng được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/3/2022 đến ngày 10/3/2022. Bị cáo còn phải chấp hành thời gian cải tạo không giam giữ là 11 (mười một) tháng, 03 (ba) ngày.

- Bị cáo Hà Văn H 11 (mười một) tháng cải tạo không giam giữ.

- Bị cáo Hồ Đình T 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ, nhưng được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/3/2022 đến ngày 11/3/2022. Bị cáo còn phải chấp hành thời gian cải tạo không giam giữ là 08 (tám) tháng, 03 (ba) ngày.

- Bị cáo Phạm T 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ, nhưng được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/3/2022 đến ngày 11/3/2022. Bị cáo còn phải chấp hành thời gian cải tạo không giam giữ là 08 (tám) tháng, 03 (ba) ngày.

Thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của các bị cáo tính từ ngày UBND xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ theo quy định tại Luật Thi hành án hình sự.

Giao các bị cáo cho UBND xã KS, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An nơi các bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã KS trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

Miễn khấu trừ thu nhập cho các bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu và nộp ngân sách Nhà nước:

+ Số tiền: 13.475.000 đồng là số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc (Trong đó: số tiền 12.375.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc khi bắt quả tang, số tiền: 200.000 đồng do Trần Văn H tự nguyện giao nộp, số tiền 900.000 đồng do Hồ Đình T tự nguyện giao nộp);

+ Số tiền 3.250.000 đồng là số tiền đánh bạc và thắng bạc của Nguyễn Văn T.

(Hiện đang bảo quản tại Kho bạc nhà nước huyện NĐ theo biên bản giao nhận tài sản và Phiếu nhập kho các ngày 11/3/2022 và 10/5/2022 giữa Công an huyện NĐ với Kho bạc Nhà nước huyện NĐ.)

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme C3, vỏ màu đỏ, màn hình bị vỡ, gắn thẻ sim có số thuê bao 0399587806, số Imei1: 860750043209690, Imei2: 860750043209682, máy đã qua sử dụng, chất lượng không kiểm tra;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J 7, vỏ màu vàng, màn hình bị vỡ, gắn thẻ sim có số thuê bao 0356920046, số Imei: 358800084031542, máy đã qua sử dụng, chất lượng không kiểm tra;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi MI6X, vỏ màu xanh, màn hình bị vỡ, gắn thẻ sim có số thuê bao 03385519583, số Imei1: 869067034430610, Imei2: 86906703430628, máy đã qua sử dụng, chất lượng không kiểm tra;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, vỏ màu xanh, gắn thẻ sim có số thuê bao 0336198178, số Imei: 358902077262132, máy đã qua sử dụng, chất lượng không kiểm tra;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel, vỏ màu đen, gắn thẻ sim có số thuê bao 0986705166, số Imei1: 355149118509641, Imei2: 355149118509658, máy đã qua sử dụng, chất lượng không kiểm tra;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, vỏ màu đen, gắn thẻ sim có số thuê bao 0365653343, Imei1: 358561087268891, Imei2: 358566086690896, máy đã qua sử dụng, chất lượng không kiểm tra;

- Tịch thu và tiêu hủy:

+ 01 chiếc bạt bằng nilon hai mặt (một mặt màu xanh, một mặt màu đỏ), kích thước 2x2m; 02 chiếc đĩa sứ màu trắng; 02 chiếc bát sứ màu trắng; 04 quân xúc xắc hình tròn, màu đỏ trắng.

(Đặc điểm, tình trạng các vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06 tháng 6 năm 2022 giữa Công an huyện NĐ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện NĐ).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Phạm Văn H, Lê Hữu T, Nguyễn Đức T, Nguyễn Văn T, Hà Văn H, Phạm T, Trần Văn H và Hồ Đình T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án đến Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 46/2022/HS-ST

Số hiệu:46/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Đàn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;