Bản án về tội đánh bạc số 09/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH L

BẢN ÁN 09/2022/HSST NGÀY 13/01/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 13 tháng 01 năm 2022 tại Trụ sở, Tòa án nhân dân huyện C, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 147/2021/TLST - HS ngày 24 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2021/QĐXXST-HS, ngày 30 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

1/ Họ và tên : Lương T , sinh năm: 1976. 

Nơi ĐKTT và chỗ ở: khu phố HT2, thị trấn C, huyện C, tỉnh L; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: K; Quốc tịch: V Nam; Con ông Lương Thành X (đã chết) và bà Nguyễn Ngọc M; Bản thân có vợ tên Trần Thị M, có 03 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án – tiền sự: K; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

2/ Họ và tên : Trần T V, sinh năm: 1984. Tên gọi khác: H. 

Nơi ĐKTT và chỗ ở: khu phố HT2, thị trấn C, huyện C, tỉnh L; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: K; Quốc tịch: V Nam; Con ông Trần Xuân X và bà Lê Thị H; Bản thân có vợ tên Nguyễn Thị Ngọc X, có 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2011; Tiền án – tiền sự: K; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

3/ Họ và tên : Võ Minh L, sinh năm: 2000. Tên gọi khác: B

Nơi ĐKTT và chỗ ở: khu phố HT2, thị trấn C, huyện C, tỉnh L; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: K; Quốc tịch: V Nam; Con ông Võ Minh L và bà Nguyễn Thị T; Bản thân chưa có vợ, con; Tiền án – tiền sự: K; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

4/ Họ và tên : Trương T S, sinh ngày: 03/11/2002. Tên gọi khác: L

Nơi ĐKTT và chỗ ở: khu phố HT2, thị trấn C, huyện C, tỉnh L; Nghề nghiệp: công nhân; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: K; Quốc tịch: V Nam; Con ông Trương Văn R và bà Nguyễn Thị Thúy N; Bản thân chưa có vợ, con; Tiền án – tiền sự: K; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

5/ Họ và tên : Nguyễn Thanh B, sinh năm: 2000.

Nơi ĐKTT và chỗ ở: khu phố HT2, thị trấn C, huyện C, tỉnh L; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: K; Quốc tịch: V Nam; Con ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị H; Bản thân chưa có vợ, con; Tiền án – tiền sự: K; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, N vụ liên quan:

Nguyễn Thị Thùy D, sinh năm: 1991 (vắng mặt).

Cư trú: khu phố HT2, thị trấn C, huyện C, tỉnh L.

- Người làm chứng:

1/ Nguyễn Thế H, sinh năm 1981 (vắng mặt).

2/ Nguyễn Văn K, sinh năm 1970 (vắng mặt).

3/ Trương Minh H, sinh năm 1983 (vắng mặt).

4/ Trần Minh N, sinh năm 1998 (vắng mặt).

Cùng cư trú: khu phố HT2, thị trấn C, huyện C, tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 16 giờ 30 phút ngày 19/02/2021, Công an thị trấn C tiến hành kiểm tra phát hiện tại quán cà phê C thuộc khu phố HT2, thị trấn C, huyện C, tỉnh L có Lương T , Trần T V, Võ Minh L, Trương T S và Nguyễn Thanh B đang tham gia đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu thắng thua bằng tiền, tang vật thu giữ tại chiếu bạc gồm: số tiền 7.680.000 đồng; 01 (một) bộ lắc tài xỉu (gồm 01 nắp sơn đen, 01 cái dĩa nhỏ, 03 cục xí ngầu); 01 (một) bộ lắc bầu cua (gồm 01 cái nắp nồi, 01 cái nồi, 03 cục bầu cua và 01 tờ giấy đặt bầu cua). Qua làm việc, công an đã thu giữ một số tài sản của các đối tượng tham gia đánh bạc như sau:

1/ Lương T bị tạm giữ: 01 (một) xe mô tô Airblade màu đỏ, biển số 62M1- 552.94; 01 (một) điện thoại di động Nokia (đã qua sử dụng) và số tiền 7.600.000 đồng.

2/ Trần T V bị tạm giữ: 01 (một) xe mô tô Dream màu nho, biển số 62M1- 152.42 và số tiền 1.200.000 đồng;

3/ Trương T S bị tạm giữ: 01 (một) xe mô tô Blade màu đen, biển số 62M1- 502.45; 01 (một) điện thoại di động Oppo A91, màu đen và số tiền 3.000.000 đồng;

4/ Võ Minh L bị tạm giữ: 01 (một) điện thoại di động Oppo, màu xanh (đã qua sử dụng); số tiền 7.420.000 đồng trên người và 80.000 đồng trên chiếu bạc;

5/ Nguyễn Thanh B bị tạm giữ: 01 (một) xe mô tô honda Dream biển số 51Z6- 7278; 01 (một) điện thoại di động Samsung, màu xanh (đã qua sử dụng) và số tiền 10.550.000 đồng.

Qua làm việc các đối tượng khai nhận: Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 19/02/2021, đến quán cà phê C , do chị Nguyễn Thị Thùy D làm chủ thì gặp V, L, S đang ở đây. vào bên trong quán lấy 01 (một) bộ lắc bầu cua và rủ V, L, S chơi thì được các đối tượng đồng ý. đứng ra làm cái còn V, L, S ngồi đặt, mỗi ván các con bạc đặt số tiền cao nhất là đến 100.000 đồng. Chơi được 04 ván thì mọi người nghỉ. tiếp tục lấy 01 (một) bộ lắc tài xỉu gồm: 01 (một) cái dĩa, 01 (một) cái nắp nhựa màu xanh- đen và 03 (ba) hột xí ngầu trong quán rồi rủ V, L, S chơi. Một lúc sau còn có Nguyễn Thanh B vào tham gia. Trong đó, là người đứng ra làm cái, còn V, L, S và B thì đặt cược bắt tài, xỉu với số tiền đặt cược mỗi ván cao nhất cũng đến 100.000 đồng. Mọi người chơi đến 16 giờ 30 phút cùng ngày thì bị công an phát hiện bắt quả tang. Quá trình điều tra, xác định được tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc của các đối tượng là 18.400.000 đồng. Cụ thể như sau:

1/ Lương T đem theo số tiền 9.000.000 đồng, sử dụng hết vào việc đánh bạc, kết quả thua 1.400.000 đồng, khi Công an vào bắt quả tang tạm giữ số tiền còn lại là 7.600.000 đồng;

2/ Trần T V đem theo số tiền 1.300.000 đồng, sử dụng hết vào việc đánh bạc, kết quả thua 100.000 đồng, khi Công an vào bắt quả tang tạm giữ số tiền là 1.200.000 đồng;

3/ Trương T S đem theo số tiền 3.300.000 đồng, sử dụng hết vào việc đánh bạc, kết quả thua 300.000 đồng, khi Công an vào bắt quả tang tạm giữ số tiền là 3.000.000 đồng;

4/ Võ Minh L đem theo số tiền 7.700.000 đồng, sử dụng 1.700.000 đồng vào việc đánh bạc, kết quả thua 280.000 đồng, khi Công an vào bắt quả tang tạm giữ số tiền là 7.500.000 đồng (trong đó có 80.000 đồng trên chiếu bạc);

5/ Nguyễn Thanh B đem theo số tiền 10.600.000 đồng, sử dụng 3.100.000 đồng vào việc đánh bạc, kết quả thua 50.000 đồng, khi Công an vào bắt quả tang tạm giữ số tiền là 10.550.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 10/CT-VKSCG ngày 24/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố các bị cáo Lương T; Trần T V; Võ Minh L; Trương T S và Nguyễn Thanh B về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Lương T từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Trần T V từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng. Võ Minh L từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng. Trương T S từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Nguyễn Thanh B từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Đề nghị K áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Vật chứng: đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Đối với số tiền: 16.350.000 đồng (của bị cáo số tiền 7.600.000 đồng; V số tiền 1.200.000 đồng; S số tiền 3.000.000 đồng; L số tiền 1.500.000 đồng và B số tiền 3.050.000 đồng), đề nghị tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với: 01 (một) bộ lắc tài xỉu (gồm 01 nắp sơn đen, 01 cái dĩa nhỏ, 03 cục xí ngầu); 01 (một) bộ lắc bầu cua (gồm 01 cái nắp nồi, 01 cái nồi, 03 cục bầu cua và 01 tờ giấy đặt bầu cua), đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đề nghị tiếp tục tạm giữ số tiền 7.500.000 đồng của bị cáo Nguyễn Thanh B và số tiền của 6.000.000 đồng của bị cáo Võ Minh L để đảm bảo thi hành án.

Đối với số tiền tạm giữ của các đối tượng có mặt tại nơi đánh bạc gồm: 1.000.000 đồng của Nguyễn Văn K; 1.000.000 đồng của Trần Minh N; 1.000.000 đồng của Trương Minh H và 04 (bốn) xe môtô và 04 (bốn) điện thoại di động các loại, K liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã xử lý trao trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp.

Các bị cáo K có ý kiến tranh luận và cũng K nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác K có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào khoảng 15 giờ 30 ngày 19/02/2021, tại quán cà phê C , Lương T cùng với Trần T V, Võ Minh L, Trương T S, Nguyễn Thanh B tham gia đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu thắng thua bằng tiền, do bị cáo đứng ra làm cái, với tổng số tiền tham gia đánh bạc do các bị cáo khai nhận là 18.400.000 đồng. Trong đó các đối tượng tham gia với số tiền cụ thể như sau: tham gia số tiền 9.000.000 đồng, V tham gia số tiền 1.300.000 đồng, L tham gia số tiền 1.700.000 đồng, S tham gia số tiền 3.300.000 đồng, B tham gia số tiền 3.100.000 đồng. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, Công an thị trấn C bắt quả tang các đối tượng đang đánh bạc. Tổng số tiền theo các bị cáo khai nhận dùng để đánh bạc hơn 5.000.000 đồng nhưng dưới 50.000.000 đồng, nên hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Đánh bạc” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội các bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm trật tự công cộng, các bị cáo cũng nhận biết đánh bạc là một tệ nạn xã hội thường dẫn đến các hành vi vi phạm pháp khác, nên Nhà nước ta đấu tranh ngăn chặn tệ nạn cờ bạc trong xã hội để góp phần giữ gìn an ninh, trật tự xã hội. Do đó hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải được xử lý thỏa đáng mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự: K.

[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự: cả năm bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó xét thấy, áp dụng hình phạt Ch là phạt tiền đối với các bị cáo cũng đủ răn đe.

[6] Trong vụ án cũng cần xem xét đến tính chất, mức độ của hành vi phạm tội từng bị cáo khi lượng hình. Cụ thể: bị cáo rủ rê và đứng ra làm nhà cái, bốn bị cáo còn lại tính chất, mức độ của hành vi phạm tội là như nhau, cùng tham gia đánh bạc. Nên mức hình phạt dành cho bị cáo cao hơn các bị cáo còn lại.

[7] Xét thấy như đã nhận định tại phần [5] là áp dụng hình phạt Ch là phạt tiền, nên K cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự.

[8] Nguyễn Thị Thùy D là chủ quán cà phê. Việc các bị cáo tự ý lấy bộ bầu cua và bộ tài xỉu để đánh bạc tại quán cà phê, D K biết và cũng K tham gia hưởng lợi nên K xem xét xử lý. Riêng Nguyễn Văn K, Trần Minh N, Trương Minh H, Nguyễn Thế H có mặt tại nơi đánh bạc nhưng K tham gia vào việc đánh bạc nên Cơ quan CSĐT K xem xét xử lý, là phù hợp.

[9] Về tang vật thu giữ:

Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã tạm giữ và hoàn trả cho:

- Lương T : 01 (một) xe mô tô Airblade màu đỏ, biển số 62M1-552.94; 01 (một) điện thoại di động Nokia (đã qua sử dụng) - Trần T V: 01 (một) xe mô tô Dream màu nho, biển số 62M1-152.42;

- Trương T S: 01 (một) xe mô tô Blade màu đen, biển số 62M1-502.45; 01 (một) điện thoại di động Oppo A91, màu đen;

- Võ Minh L: 01 (một) điện thoại di động Oppo, màu xanh (đã qua sử dụng);

- Nguyễn Thanh B: 01 (một) xe mô tô honda Dream biển số 51Z6-7278; 01 (một) điện thoại di động Samsung, màu xanh (đã qua sử dụng).

- Nguyễn Văn K; Trần Minh N; Trương Minh H, mỗi đối tượng 1.000.000 đồng.

Do các tang, tài vật trên K liên quan đến vụ án, là phù hợp với quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ quy định Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự. Tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước: của bị cáo Lương T số tiền 7.600.000 đồng; của bị cáo Trần T V số tiền 1.200.000 đồng; của bị cáo Võ Minh L số tiền 1.500.000 đồng; của bị cáo Trương T S số tiền 3.000.000 đồng và của bị cáo Nguyễn Thanh B số tiền 3.050.000 đồng. Tổng cộng 16.350.000 đồng.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bộ lắc tài xỉu (gồm 01 nắp sơn đen, 01 cái dĩa nhỏ, 03 cục xí ngầu); 01 (một) bộ lắc bầu cua (gồm 01 cái nắp nồi, 01 cái nồi, 03 cục bầu cua và 01 tờ giấy đặt bầu cua) của chị Nguyễn Thị Thùy D, do các bị cáo sử dụng để đánh bạc.

Đối với số tiền tạm giữ của bị cáo Võ Minh L 6.000.000 đồng và Nguyễn Thanh B 7.500.000 đồng. Do như đã nhận định tại phần [5] là xử phạt các bị cáo hình phạt Ch là phạt tiền, nên tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[10] Về án phí: mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Lương T , Trần T V, Võ Minh L, Trương T S, Nguyễn Thanh B cùng phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt:

Lương T 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

Trần T V 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Võ Minh L 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Trương T S 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Nguyễn Thanh B 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự. Tang vật:

Tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước: số tiền 16.350.000 đồng (Mười sáu triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng).

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bộ lắc tài xỉu (gồm 01 nắp sơn đen, 01 cái dĩa nhỏ, 03 cục xí ngầu); 01 (một) bộ lắc bầu cua (gồm 01 cái nắp nồi, 01 cái nồi, 03 cục bầu cua và 01 tờ giấy đặt bầu cua) Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án số tiền 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) của bị cáo Võ Minh L và số tiền 7.500.000 đồng (Bảy triệu năm trăm ngàn đồng) của bị cáo Nguyễn Thanh B.

Hiện vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện C đang tạm giữ theo Quyết định chuyển vật chứng số 08/QĐ-VKSCG và số 09/QĐ-VKSCG, ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C.

Về án phí: các bị cáo , V, L, S, B, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, N vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

360
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 09/2022/HSST

Số hiệu:09/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;