Bản án về tội đánh bạc số 43/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 43/2022/HS-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 34/2022/TLST-HS ngày 30/3/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2022/QĐXXST-HS ngày 18/4/2022, đối với các bị cáo:

1. Lương Thị H, tên gọi khác: Không; sinh ngày 27 tháng 5 năm 1977 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 41 (nay là số 77), đường Lê Đại H, phường Vĩnh T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Tày; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; trình độ học vấn: 10/12; con ông Lương Mạnh T, sinh năm 1940 và bà Chu Thị Đ (đã chết); chồng: Phạm Hồng Sơn, sinh năm 1966 và có 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa từng bị kết án, xử lý hành chính, xử lý kỷ luật. Bị cáo tại ngoại, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 06/01/2022 đến nay; có mặt.

2. Đặng Văn N, tên gọi khác: Không, sinh ngày 21 tháng 01 năm 1978 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 09 ngõ 01 (nay là số 09/63) đường Bến B, phường Tam T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lái xe; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 12/12; con ông Đặng Bá Ký, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1956; vợ: Lương Thúy K, sinh năm 1980 và có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tại Quyết định số 03657/QĐ/XPVPHC ngày 09/12/2016 của Công an thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn xử phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc (đã được xóa tiền sự). Bị cáo tại ngoại, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 06/01/2022 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: , sinh năm 1966; địa chỉ: Số 77 đường Lê Đại H, phường Vĩnh T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 30 phút ngày 28/12/2021, Tổ công tác Công an thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn tiến hành kiểm tra hành chính đối với Lương Thị H đang ngồi bán vé xổ số trước cửa nhà số 41 (nay là số 77), đường Lê Đại H, phường Vĩnh T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn, phát hiện trong điện thoại nhãn hiệu Oppo F11 màu xanh Lương Thị H đang sử dụng có nội dung tin nhắn Zalo liên quan đến hoạt động mua bán số lô đề tư nhân.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ của Lương Thị H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F11 Pro màu xanh, lắp sim số 0858.090.382, máy cũ đã qua sử kèm một ốp lưng; 01 quyển sổ bìa ngoài màu trắng có dòng chữ “Sổ kết quả” màu xanh lam và số tiền 900.000 đồng. Thu giữ của Đặng Văn N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy không lắp thẻ sim, máy cũ đã qua sử dụng kèm một ốp lưng màu đen.

Quá trình điều tra xác định được: Lương Thị H làm đại lý bán vé sổ xố kiến thiết miền Bắc và ghi số lô tô cho Công ty sổ xố kiến thiết tỉnh Lạng Sơn. Ngoài ra, Lương Thị H còn sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F11 pro màu xanh, lắp sim số 0858.090.382, sử dụng tài khoản zalo với tên “Hg” để nhận tin nhắn mua số lô, đề tư nhân với khách chơi, sau đó tự tổng hợp lại, đối chiếu với kết quả sổ xố kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày trả thưởng cho khách để kiếm lời. Việc mua bán số lô, đề tư nhân dựa trên kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày, đề 2 số được tính theo hai số cuối của giải đặc biệt, đề 2 số giải nhất tính theo hai số cuối của giải nhất, đề 3 số tính theo ba số cuối của giải đặc biệt, lô tính theo hai số cuối của các giải thưởng. Lương Thị H bán số lô, đề tư nhân cho khách với giá như sau: Đề hai số và đề ba số giá 1.000 đồng/1 điểm; lô giá 22.000 đồng/1 điểm. Trường hợp người chơi thắng 01 điểm đề 2 số và 01 điểm đề 2 số giải nhất đều được 70.000 đồng, 01 điểm đề 3 số được 400.000 đồng, 01 điểm lô được 80.000 đồng.

Đặng Văn N là bạn của Lương Thị H, biết Lương Thị H bán số lô, đề tư nhân nên thỉnh thoảng mua số lô đề với Lương Thị H. Ngày 27/12/2021, Đặng Văn N sử dụng điện thoại hiệu Samsung Galaxy gắn sim số 0345.252.375, có tài khoản zalo tên “Alo” của Đặng Văn N nhắn tin đến tài khoản Zalo tên “Hg” của Lương Thị H mua 2.110 điểm đề 02 số và 30 điểm đề 03 số tương ứng số tiền 2.140.000 đồng (hai triệu một trăm bốn mươi nghìn đồng); 247 điểm lô tương ứng số tiền 5.434.000 đồng (năm triệu bốn trăm ba mươi bốn nghìn đồng); tổng số điểm lô, đề Đặng Văn N mua với Lương Thị H ngày 27/12/2021 tương ứng với số tiền là 7.574.000 đồng (bẩy triệu năm trăm bẩy mươi tư nghìn đồng). Tại thời điểm kiểm tra ngày 28/12/2021, ngoài nội dung tin nhắn zalo mua bán số lô đề ngày 27/12/2021 giữa Lương Thị H và Đặng Văn N, Cơ quan điều tra không phát hiện các tài liệu, giấy tờ nào khác liên quan đến việc mua bán số lô, đề tư nhân của Lương Thị H.

Căn cứ kết quả sổ xố miền Bắc mở thưởng ngày 27/12/2021, Đặng Văn N trúng thưởng 20 điểm đề 02 số tương ứng số tiền 1.400.000 đồng (một triệu bốn trăm nghìn đồng) và 133 điểm số lô tương ứng số tiền 10.640.000 đồng (mười triệu sáu trăm bốn mươi nghìn đồng); tổng số điểm lô đề Đặng Văn N trúng thưởng tương ứng số tiền là 12.040.000 đồng (mười hai triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng). Xác định số tiền Lương Thị H và Đặng Văn N đánh bạc dưới hình thức mua, bán số lô, đề tư nhân ngày 27/12/2021 bằng nhau, đều là 19.614.000 đồng (mười chín triệu sáu trăm mười bốn nghìn đồng). Đặng Văn N và Lương Thị H chưa thanh toán tiền mua - bán và thắng - thua lô đề cho nhau.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng S, Lương Thị H và Đặng Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Lương Thị H khai nhận trong ngày 28/12/2021, Lương Thị H chưa bán số lô, đề tư nhân cho ai. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phạm Hồng Strình bày: Ông là chồng của Lương Thị H, là người đăng ký và mở đại lý bán vé xổ số và ghi số lô tô với , và lấy tên đại lý là Phạm Sơn để hoạt động. Hàng ngày, việc việc bán vé xổ số và số lô tô là do Lương Thị H thực hiện, ông không biết Lương Thị H bán số lô đề tư nhân.

Tại Cáo trạng số 39/CT-VKS, ngày 30/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố các bị cáo Lương Thị H và Đặng Văn N về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như Cáo trạng đã truy tố. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phạm Hồng Svắng mặt tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lương Thị H và Đặng Văn N phạm tội Đánh bạc. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, 47, 50, 58, 65 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đề nghị xử phạt các bị cáo Lương Thị H và Đặng Văn N mỗi bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 quyển sổ, bìa ngoài màu trắng có dòng chữ “Sổ kết quả” màu xanh lam; tịch thu, hóa giá nộp ngân sách Nhà nước gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F11 Pro màu xanh, lắp sim số 0858.090.382, máy cũ đã qua sử dụng kèm một ốp lưng của Lương Thị H và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy không lắp thẻ sim, máy cũ đã qua sử dụng kèm một ốp lưng màu đen của Đặng Văn N; trả lại bị cáo Lương Thị H số tiền 900.000 đồng. Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ theo quy định pháp luật.

Các bị cáo đều không có ý kiến tranh luận.

Trong lời nói sau cùng các bị cáo đều trình bày: Các bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và rất hối hận về hành vi đã thực hiện, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, cho các bị cáo được hưởng án treo để các bị cáo có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng các con và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa vắng mặt ông , là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng ông Phạm Hồng S, đã có lời khai đầy đủ trong hồ sơ vụ án và có đơn xin xét xử vắng mặt và, sự vắng mặt của ông Phạm Hồng S, không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Phạm Hồng S theo quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng, việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện, các tài liệu chứng cứ đã thu thập đều hợp pháp.

[3] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Qua đó có căn cứ xác định: Ngày 27/12/2021, các bị cáo Lương Thị H và có hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô đề; cụ thể bị cáo Lương Thị H đã bán số lô đề cho bị cáo Đặng Văn N, số tiền đánh bạc của các bị cáo đều là 19.614.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để kết luận các bị Lương Thị H và Đặng Văn N phạm tội Đánh bạc quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng S truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, là nguyên nhân, tiền đề phát sinh thiệt hại về kinh tế và các loại tội phạm khác. Các bị cáo đều là người trưởng thành, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật, nhưng vì hám lợi các bị cáo đã phạm tội. Để quyết định hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá vai trò, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo.

[5] Vụ án thuộc trường hợp đồng phạm nhưng có tính chất giản đơn, các bị cáo đều đóng vai trò là người thực hành, trực tiếp đánh bạc, cụ thể như sau:

[6] Bị cáo Lương Thị H là chủ lô đề, bán số lô đề cho bị cáo Đặng Văn N, tự chịu thắng thua với người chơi. Số tiền đánh bạc của bị cáo Lương Thị H là 19.614.000 đồng.

[7] Bị cáo Đặng Văn N là người chơi số lô đề, mua số lô đề với Lương Thị H. Số tiền đánh bạc của bị cáo Đặng Văn N là 19.614.000 đồng.

[8] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[9] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, tại phiên tòa các bị cáo đều có thái độ ăn năn hối cải nên đều được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[10] Về nhân thân: Bị cáo Lương Thị H không có tiền án, tiền sự; chưa từng bị kết án, xử lý hành chính, xử lý kỷ luật nên xác định có nhân thân tốt. Bị cáo Đặng Văn N đã 01 lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc vào năm 2016, tuy nhiên đã được xóa tiền sự.

[11] Về hình phạt chính: Từ những phân tích trên, xét thấy, các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, không có tiền án, tiền sự; đều có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo Lương Thị H có nhân thân tốt, bị cáo Đặng Văn N tuy năm 2016 đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng đã được xóa tiền sự từ nhiều năm; các bị cáo chấp hành đúng chính sách pháp luật và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân tại nơi cư trú; đều có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng. Xét thấy, các bị cáo có đủ các điều kiện cho hưởng án treo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự và Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Việc cho các bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà để cho các bị cáo cải tạo tại địa phương, dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và sự giúp đỡ của gia đình cũng đảm bảo tính giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[12] Về hình phạt bổ sung: Theo các biên bản xác minh ngày 17/02/2022 và các tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện các bị cáo đều không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[13] Về xử lý vật chứng:

[13.1] Đối với 01 quyển sổ, bìa ngoài màu trắng có dòng chữ “Sổ kết quả” màu xanh lam, kích thước 07cm x 11cm thu giữ của Lương Thị H liên quan đến hành vi đánh bạc, không có giá trị sử dụng cần tịch thu và tiêu hủy.

[13.2] Đối với các điện thoại gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F11 Pro màu xanh, lắp thẻ sim, máy cũ đã qua sử kèm một ốp lưng thu giữ của Lương Thị H và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy màu đen, không lắp thẻ sim, máy cũ đã qua sử dụng kèm một ốp lưng màu đen thu giữ của Đặng Văn N là điện thoại các bị cáo dùng để đánh bạc cần tịch thu, hóa giá nộp ngân sách Nhà nước.

[13.3] Đối với số tiền 900.000 đồng thu giữ của Lương Thị H xác định không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo Lương Thị H.

[14] Đối với số tiền đánh bạc của các bị cáo được xác định thông qua các tin nhắn zalo, thực tế các bị cáo chưa chuyển, nhận tiền đánh bạc; chưa thanh toán tiền thắng, thua cho nhau, chưa được hưởng lợi nên không có căn cứ để truy thu số tiền này.

[15] Về án phí: Các bị cáo bị kết án, phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[16] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân thành phố Lạng Sơn về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo và các nội dung khác là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[17] Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, 58, 50, 65 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lương Thị H, Đặng Văn N phạm tội Đánh bạc.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Lương Thị H 01 (một) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Vĩnh T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự;

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2.2. Xử phạt bị cáo Đặng Văn N 01 (một) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Tam T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự;

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) quyển sổ, bìa ngoài màu trắng có dòng chữ “Sổ kết quả” màu xanh lam, kích thước 7cm x 11cm thu giữ của Lương Thị H.

3.2. Tịch thu, hóa giá nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F11 Pro màu xanh, lắp thẻ sim, máy cũ đã qua sử kèm một ốp lưng thu giữ của Lương Thị H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy không lắp thẻ sim, máy cũ đã qua sử dụng kèm một ốp lưng màu đen thu giữ của Đặng Văn N.

3.3. Trả lại cho bị cáo Lương Thị H số tiền 900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng).

(Các vật chứng nêu trên được ghi chi tiết trong Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/3/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng S và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Buộc các bị cáo Lương Thị H, Đặng Văn N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 43/2022/HS-ST

Số hiệu:43/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;