Bản án về tội đánh bạc số 36/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 36/2021/HS-ST NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Vào ngày 09 tháng 03 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị H; sinh năm 1989 tại: An Giang.

Nơi đăng ký thường trú: Ấp t, xã a, huyện T, tỉnh An Giang.

Nơi sinh sống: Ấp N, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: 06/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1957 và bà Lê Thị M, sinh năm: 1965.

Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ nhất, có chồng là Đỗ Chí T, sinh năm 1980. Có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2016 Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại: Ấp N, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

2. Võ Kim T, sinh năm 1982 tại Đồng Tháp.

Nơi đăng ký thường trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

Nơi sinh sống: Ấp N, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: Không biết chữ. Dân tộc: Kinh.

Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Võ Thành L (Đã chết) và bà Trần Thị N, sinh năm: 1950.

Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ 05, có chồng là Lê Văn H, sinh năm 1981, có 03 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại: Ấp N, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

3. Trần Thị Kim N; sinh năm 1996, tại: Đồng Tháp Nơi đăng ký thường trú: Ấp B, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp Nơi cư trú: Ấp N, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: Không biết chữ. Dân tộc: Kinh

Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Trần Quốc V, sinh năm: 1969 và bà Nguyễn Thị Tuyết E, sinh năm: 1972.

Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ 03. Bị cáo có chồng là Lê Văn N, sinh năm 1991, chưa có con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại: Ấp N, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

4. Lê Thị H, sinh năm 1996 tại Kiên Giang.

Nơi đăng ký thường trú: Ấp C, xã D, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Nơi sinh sống: Ấp N, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: 09/12. Dân tộc: Kinh.

Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Lê Văn T, sinh năm: 1971 và bà Võ Thị Kim L, sinh năm: 1971.

Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ 02, chưa có chồng con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại: Ấp N, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

5. Đoàn Thị T, sinh năm 1976 tại Đồng Tháp.

Nơi đăng ký thường trú: Ấp M, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Nơi sinh sống: Ấp M, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: Không biết chữ. Dân tộc: Kinh.

Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Đoàn Văn X, sinh năm: 1953 và bà Trần Thị , sinh năm: 1953.

Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ 02, có chồng là Nguyễn Văn N, sinh năm 1972 và có 03 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2012.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại: Ấp M, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai 6. Nguyễn Thị Q, sinh năm 1982 tại Bạc Liêu.

Nơi đăng ký thường trú: Ấp M, xã V, huyện H, tỉnh Bạc Liêu. Nơi sinh sống: Ấp N, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: 08/12. Dân tộc: Kinh.

Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Nguyễn Công L, sinh năm: 1938 và bà Quách Thị H, sinh năm: 1941.

Gia đình có 08 anh chị em, bị cáo là con thứ 08, có chồng là Nguyễn Văn Q, sinh năm 1983 và có 01 con, sinh năm 2001.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại: Ấp N, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai 7. Lê Thanh N, sinh năm 1980 tại Cà Mau.

Nơi đăng ký thường trú: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.

Nơi sinh sống: Ấp N, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: 07/12. Dân tộc: Kinh.

Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Lê Văn P, sinh năm: 1940 và bà Phạm Thị N, sinh năm: 1946.

Gia đình có 08 anh chị em, bị cáo là con thứ 07, có vợ là Trần Thị T, sinh năm 1982 và có 01 con, sinh năm 2000.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại: Ấp N, xã A, Huyện L, tỉnh Đồng Nai 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 10 giờ ngày 16/4/2020 tại phòng trọ của Nguyễn Thị H ở Ấp N, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Công an xã An Phước phát hiện Võ Kim T, Trần Thị Kim N, Đoàn Thị T, NguyễnThị Q, Lê Thị H và Lê Thanh Nghị đang đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền, bằng hình thức bài cào. Thu giữ tại chiếu bạc 5.700.000 đồng, thu giữ trên người H 2.200.000 đồng, H 100.000 đồng, T 3.300.000 đồng, T 200.000 đồng và 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng.

Quá trình điều tra xác định: Ngày 16/4/2020, Nguyễn Thị H cho Võ Kim T, Trần Thị Kim N, Đoàn Thị T, Nguyễn Thị Q, Lê Thị H và Lê Thanh Nghị đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền tại phòng trọ của H. Nguyễn Thị H không tham gia đánh bạc mà chỉ thu tiền xâu. Ngày 16/4/2020 Lê Thanh Nghị mang theo 1.000.000 đồng sử dụng vào việc đánh bạc, Nghị thua 1.000.000 đồng; Lê Thị H sử dụng 4.200.000 đồng vào việc đánh bạc (trong đó có 2.000.000 đồng do Trần Thị Kim N góp chung với H, 2.200.000 đồng H mang theo), H thua 2.000.000 đồng; Đoàn Thị T mang theo 500.000 đồng sử dụng vào việc đánh bạc, T thua 300.000 đồng; Nguyễn Thị Q mang theo 2.000.000 đồng sử dụng vào việc đánh bạc, Q thua 2.000.000 đồng; Trần Thị Kim N mượn Nguyễn Thị H 2.000.000 đồng và đưa cho Lê Thị H với mục đích góp chung để H làm cái, đồng thời N sử dụng 540.000 đồng vào việc đánh bạc, N thua 540.000 đồng; Võ Kim T mang theo 3.000.000 đồng sử dụng vào việc đánh bạc, T thắng 300.000 đồng. Hình thức đánh bạc là bài cào, mỗi người sẽ làm cái 03 lần, người chơi sẽ đặt số tiền từ 30.000 đồng đến 50.000 đồng cho mỗi lần chơi. Sau 03 lần làm cái mà người làm cái thắng sẽ đưa cho Nguyễn Thị H số tiền 20.000 đồng. Tổng số tiền xâu H được hưởng trong ngày 16/4/2020 là 100.000 đồng. Ngoài ra, ngày 15/4/2020 Nguyễn Thị H còn cho Đoàn Thị T, Lê Thanh Nghị và một số người khác (không rõ nhân thân, lai lịch) đánh bạc thắng thua bằng tiền nhưng không xác định được số tiền đánh bạc trên chiếu bạc và số tiền H thu lợi bất chính vào ngày 15/4/2020 là 110.000 đồng.

Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc được xác định là 11.500.000 đồng (trong đó: thu giữ trên chiếu bạc là 5.700.000 đồng, thu giữ trên người H, H, T và T là 5.800.000 đồng) Về vật chứng thu giữ:

- 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng.

- Số tiền 11.610.000 đồng (trong đó 11.500.000 đồng các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc ngày 16/4/2020 và 110.000 đồng là tiền thu lợi bất chính H được hưởng vào ngày 15/4/2020).

Trước Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, các bị cáo Nguyễn Thị H, Võ Kim T, Trần Thị Kim N, Đoàn Thị T, Nguyễn Thị Q, Lê Thị H và Lê Thanh Nghị đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng cùng các chứng cứ tài liệu thu thập được tại hồ sơ vụ án Tại bản Cáo trạng số 25A/CT-VKSLT ngày 18 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị H, Võ Kim T, Trần Thị Kim N, Đoàn Thị T, Nguyễn Thị Q, Lê Thị H và Lê Thanh Nghị về tội danh: “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo điều khoản nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị H từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng sung vào Ngân sách Nhà nước, bị cáo Võ Kim T từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng sung vào Ngân sách Nhà nước, bị cáo Trần Thị Kim N từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng sung vào Ngân sách Nhà nước, bị cáo Đoàn Thị T từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng sung vào Ngân sách Nhà nước, bị cáo Nguyễn Thị Q từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng sung vào Ngân sách Nhà nước, bị cáo Lê Thị H từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng sung vào Ngân sách Nhà nước, bị cáo Lê Thanh Nghị từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng sung vào Ngân sách Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, đã có đủ cơ sở xác định: Lúc 10 giờ ngày 16/4/2020 tại phòng trọ do Nguyễn Thị H thuê tại Ấp N, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai, H cho Võ Kim T, Trần Thị Kim N, Đoàn Thị T, Nguyễn Thị Q, Lê Thị H và Lê Thanh Nghị đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền dưới hình thức bài cào. Tổng số tiền các bị can sử dụng vào việc đánh bạc là 11.500.000 đồng. Ngoài ra, ngày 15/4/202020 Nguyễn Thị H còn cho Đoàn Thị T, Lê Thanh Nghị và một số người khác (không rõ nhân thân, lai lịch) đánh bạc thắng thua bằng tiền nhưng không xác định được số tiền đánh bạc trên chiếu bạc, số tiền H thu lợi bất chính vào ngày 15/4/2020 là 110.000 đồng.

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Thị H, Võ Kim T, Trần Thị Kim N, Đoàn Thị T, Nguyễn Thị Q, Lê Thị H và Lê Thanh Nghị đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1, Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố các bị cáo với tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

[2] Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo Nguyễn Thị H tuy biết rõ hành vi cho các bị cáo khác sử dụng nhà của bị cáo làm địa điểm đánh bạc để thu tiền xâu là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích thu lợi bất chính, bị cáo đã bất chấp, mặc dù hành vi của bị cáo chưa đủ yếu tố cấu thành tội tổ chức đánh bạc nhưng bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đánh bạc của các bị cáo khác với vai trò đồng phạm. Đối với các bị cáo Võ Kim T, Trần Thị Kim N, Đoàn Thị T, Nguyễn Thị Q, Lê Thị H và Lê Thanh Nghị mặc dù biết hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới mọi hình thức là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền một cách dễ dàng để thỏa mãn mục đích tiêu xài cá nhân nên các bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý cùng thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của các bị cáo mang tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo H là người cho các bị cáo khác mượn địa điểm để đánh bạc và thu tiền xâu, các bị cáo Võ Kim T, Trần Thị Kim N, Đoàn Thị T, Nguyễn Thị Q, Lê Thị H và Lê Thanh Nghị cùng nhau thực hiện hành vi đánh bạc với tổng số tiền xác định các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 11.500.000 đồng. Do đó mỗi bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra, quá trình điều tra xác định vào ngày 15/4/2020 Nguyễn Thị H còn cho Đoàn Thị T, Lê Thanh Nghị và một số người khác (không rõ nhân thân, lai lịch) đến phòng trọ của H để đánh bạc thắng thua bằng tiền, mặc dù không xác định được số tiền đánh bạc nên không có căn cứ xử lý hình sự đối với các bị cáo về lần đánh bạc này, tuy nhiên tình tiết này cho thấy các bị cáo có tính ham mê cờ bạc và ý thức chấp hành pháp luật kém.

Xét hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn minh của xã hội, đồng thời còn có thể là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét các bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc không lớn nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo cũng đủ sức răn đe và phù hợp, tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa sai lầm trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[3] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Số tiền 11.610.000 đồng (trong đó 11.500.000 đồng các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc ngày 16/4/2020 và 110.000 đồng là tiền bị cáo H thu lợi bất chính vào ngày 15/4/2020) cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- 01 bộ bài tây 52 lá (đã qua sử dụng) là công cụ các bị cáo sử dụng để đánh bạc cần tịch thu tiêu hủy.

[4] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về tính hợp pháp của các quyết định, hành vi tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều được thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị H, Võ Kim T, Trần Thị Kim N, Đoàn Thị T, Nguyễn Thị Q, Lê Thị H và Lê Thanh Nghị phạm tội: “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng sung vào Ngân sách Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Võ Kim T số tiền 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng sung vào Ngân sách Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Kim N số tiền 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng sung vào Ngân sách Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Đoàn Thị T số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng sung vào Ngân sách Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Q số tiền 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng sung vào Ngân sách Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Lê Thị H số tiền 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng sung vào Ngân sách Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Lê Thanh Nghị số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng sung vào Ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 11.610.000 (mười một triệu sáu trăm mười nghìn) đồng;

Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá (đã qua sử dụng).

(Theo Biên lai thu tiền số 006896 ngày 19/01/2021 và biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành).

Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Thị H, Võ Kim T, Trần Thị Kim N, Đoàn Thị T, Nguyễn Thị Q, Lê Thị H và Lê Thanh Nghị, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có Q kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 36/2021/HS-ST

Số hiệu:36/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;