TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TT, TỈNH PT
BẢN ÁN 24/2021/HSST NGÀY 21/06/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 21 tháng 6 năm 2021. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh PT xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Trần X T, sinh năm 1985 tại huyện TT, tỉnh PT; Nơi cư trú: Khu 11 xã TV, huyện TT, tỉnh PT; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Đệ, sinh năm 1959 và bà Đỗ Thị Liên sinh năm 1963; Có vợ Trần Thị Thúy, sinh năm 1989 và 03 con (con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 24/12/2020 đến ngày 29/12/2020 được hủy bỏ biện pháp “tạm giữ”, thay thế bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
2. Hà Văn X, sinh năm 1953 tại huyện TT, tỉnh PT; Nơi cư trú: Khu 11 xã TV, huyện TT, tỉnh PT; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Kim Lô (đã chết) và bà Nguyễn Thị Tẹo (đã chết); Có vợ Phùng Thị Khanh (đã chết) và 05 con (con lớn nhất sinh năm 1977, con nhỏ sinh năm 1986); Tiền án, tiền sự: Không. Hiện bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo Hà Văn X: Ông Lã Thành Công - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh PT. (Có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Thiều Văn T1, sinh năm 1948; Địa chỉ: Khu 11 xã TV, huyện TT, tỉnh PT (Vắng mặt)
+ Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1974; Địa chỉ: Khu 11 xã TV, huyện TT, tỉnh PT. (Vắng mặt) + Anh Nguyễn Việt H, sinh năm 1977; Địa chỉ: Khu 10 xã TV, huyện TT, tỉnh PT. (Vắng mặt)
+ Anh Trần Chung K, sinh năm 1985; Khu 11 xã TV, huyện TT, tỉnh PT. (Vắng mặt) mặt)
+ Anh Thiều Quang L, sinh năm1994; Khu 11 xã TV, huyện TT, tỉnh PT. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 18 giờ 00 phút, ngày 24/12/2020, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Tổ công tác đội Cảnh sát điều tra hình sự Công an huyện TT phối hợp cùng Công an xã TV kiểm tra hành chính đối với Hà Văn X, sinh năm 1953, hộ khẩu thường trú: khu 11, xã TV, huyện TT, tỉnh PT tại nhà chị Nguyễn Thị Hiền, sinh năm 1965, hộ khẩu thường trú: Khu 9, xã TV, huyện TT, tỉnh PT, phát hiện X có hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức mua bán số lô, đề qua tin nhắn trên ứng dụng Zalo trên điện thoại di động. Quá trình kiểm tra, Hà Văn X tự giác giao nộp 02 tờ giấy A4 có ghi các chữ và số, X khai là bảng đề, 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A7 màu vàng đồng, lắp sim số 0339.669.940, kiểm tra điện thoại có các tin nhắn mua bán số lô, đề trên ứng dụng Zalo “Kim X” gửi đi ngày 24/12/2020 đến tài khoản Zalo “Napoly” với tổng số tiền là 13.010.000 đồng, X khai tài khoản Zalo “Napoly” là của Trần X T, sinh năm 1985, hộ khẩu thường trú: khu 11, xã TV, huyện TT, tỉnh PT. Tổ công tác đã lập biên bản kiểm tra hành chính và tạm giữ của X: 01 bút bi Thiên Long mực màu đen, 01 ví giả da bên trong có số tiền 5.085.000 đồng.
Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hà Văn X, quá trình khám xét thu giữ: 01 điện thoại di động Nokia RM 1190 màu trắng và số tiền 10.000.000 đồng.
Căn cứ lời khai của Hà Văn X, hồi 18 giờ 15 phút cùng ngày, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần X T. Quá trình khám xét thu giữ: 01 điện thoại di động OPPO A1601 màu vàng, lắp sim số 0961.721.666 và số tiền 700.000 đồng, kiểm tra ứng dụng Zalo trên điện thoại thu giữ của Tình đăng ký tài khoản “Napoly” có nhiều tin nhắn thể hiện việc bán số lô, đề với các tài khoản Zalo “Kim X” với tổng số tiền 13.010.000 đồng, “Tài lộc” với số tiền 6.260.000 đồng, “Luyện Lee” với tổng số tiền là 430.000 đồng và tin nhắn chuyển bảng cho tài khoản Zalo “Vm” với tổng số tiền là 28.260.000 đồng, Tình khai tài khoản Zalo “Vm” đăng ký bằng số điện thoại 0363.390.381 là của Ngô Đức Vị, sinh năm 1974, hộ khẩu thường trú: xóm Vũ, xã Lương Nha, huyện Thanh Sơn, tỉnh PT.
Căn cứ lời khai của Trần X T, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Ngô Đức Vị, quá trình khám xét thu giữ: 03 ví giả da màu đen, 01 túi sách giả da màu nâu, 01 túi vải màu trắng xanh, 01 chứng minh nhân dân mang tên Ngô Đức Vị và số tiền 106.044.000 đồng.
Quá trình điều tra, Hà Văn X và Trần X T khai nhận hành vi phạm tội của mình, cụ thể như sau:
Do muốn thu lời bất chính nên Hà Văn X đã thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức bán số đề cho các đối tượng, sau đó tổng hợp và chuyển bảng lô, đề cho Trần X T. X đã thống nhất thỏa thuận với Tình và người mua số lô, số đề, quy ước về tỷ lệ thắng thua như sau: Đối với số đề, ghi hai số tự nhiên hàng chục và hàng đơn vị theo yêu cầu của người mua từ 00 đến 99, sau đó so sánh với hai số cuối của giải đặc biệt xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng ngày hôm đó, nếu số của người mua trùng với hai số cuối của giải đặc biệt thì người đó thắng, được trả gấp 70 lần số tiền mà người đó đã bỏ ra mua số đề, còn nếu không trùng với hai số cuối của giải đặc biệt thì người đó mất số tiền bỏ ra mua số đề. Trong số đề có quy ước các bộ số như đầu, đít, đề dây, kép bằng, kép lệch, tổng, ba càng…Xuân chiết khấu cho người mua số đề từ 20% tiền mua số đề, Tình chiết khấu cho X 27%. Với số lô thì lấy 2 số cuối của tất cả các giải xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng cùng ngày so với số lô người mua đã mua, nếu trùng với 2 số cuối của bất kỳ giải nào thì người mua thắng, nếu không trùng bất kỳ giải nào thì người mua thua và mất số tiền đã bỏ ra, X tính người mua 22.500 đồng/ 1 điểm lô, Tình tính X 22.000 đồng/ 1 điểm, nếu trúng thì được trả 1 điểm lô bằng 80.000 đồng. Đối với việc mua bán số lô,đề phải mua trước trước 18 giờ 15 phút ( tức là trước giờ mở thưởng xổ số). Việc thanh toán tiền được, thua sẽ được thực hiện vào ngày hôm sau.
Quá trình điều tra đã xác định: Ngày 24/12/2020, X đã bán số đề cho Thiều Văn T1, sinh năm 1948, hộ khẩu thường trú: khu 11, xã TV, huyện TT, tỉnh PT. Thiều Văn T1 đã sử dụng điện thoại Nokia 301 màu đen, lắp sim số 0976.850.265 gọi đến số điện thoại 0339.669.940 của Hà Văn X mua các số đề với tổng số tiền 1.310.000 đồng. Thế chưa thanh toán tiền mua số đề cho X. Ngoài ra, X còn trực tiếp bán số lô cho khách qua đường X không biết họ, tên địa chỉ cụ thể với tổng số tiền là 10.462.500 đồng. X đã thu tiền của khách đến mua số lô. Sau khi bán số lô, đề cho Thế và khách qua đường, X giữ lại một vài số lô, số đề để tự thanh toán với khách, còn lại tổng hợp vào 01 tờ giấy A4 và ghi thêm các số lô, đề tự mua với số tiền 2.690.000 đồng vào bảng đề, tổng cộng là 13.010.000 đồng. X dùng điện thoại Samsung Galaxy A7 chụp ảnh lại bảng đề đã tổng hợp, đồng thời dùng điện thoại đăng nhập tài khoản Zalo “Kim X” gửi tin nhắn chuyển hình ảnh bảng đề đến tài khoản “Napoly” của Trần X T.
Sau khi nhận bảng đề X gửi, Tình nhắn tin xác nhận “OK”. X chưa thanh toán tiền chuyển bảng cho Tình.
Như vậy, tổng số tiền đánh bạc Hà Văn X phải chịu trách nhiệm hình sự ngày 24/12/2020 là 14.462.500 đồng.
Ngoài nhận chuyển bảng mua số lô, số đề của Hà Văn X với số tiền 13.010.000 đồng, Cơ quan điều tra còn làm rõ, ngày 24/12/2020, Trần X T còn có hành vi trực tiếp bán số lô, số đề và nhận chuyển bảng cho một số đối tượng khác, cụ thể như sau:
1/ Đối với Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1974, hộ khẩu thường trú: khu 11, xã TV, huyện TT, tỉnh PT, Điền đã mua trực tiếp các số đề của Tình với tổng số tiền là 180.000 đồng. Điền chưa thanh toán tiền cho Tình.
2/ Đối với Nguyễn Việt H, sinh năm 1977, hộ khẩu thường trú: khu 10, xã TV, huyện TT, tỉnh PT, Hưng đã mua trực tiếp của Tình các số lô, số đề với tổng số tiền là 780.000 đồng.
3/Đối với Trần Chung K, sinh năm 1985, hộ khẩu thường trú: khu 11, xã TV, huyện TT, tỉnh PT, Kiên đã mua trực tiếp của Tình các số lô, số đề với tổng số tiền là 620.000 đồng. Kiên chưa thanh toán tiền cho Tình.
4/ Đối với Thiều Quang L, sinh năm 1994, hộ khẩu thường trú: khu 11, xã TV, huyện TT, tỉnh PT, Luyện đã mua của Tình các số lô, số đề bằng hình thức sử dụng tên Zalo “Luyện Lee” nhắn tin đến tài khoản Zalo của Tình với tổng số tiền là 430.000 đồng. Luyện chưa thanh toán tiền cho Tình.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Việt H, Trần Chung K và Thiều Quang L đã khai nhận hành vi mua bán số lô, đề với Trần X T như đã nêu trên.
Ngoài các đối tượng trên, Trần X T còn nhận bảng lô, đề từ tài khoản Zalo “Tài lộc” đăng ký bằng số điện thoại 0838.942.686 mua các số lô, đề với tổng số tiền 6.260.000 đồng. Trần X T khai nhận, tài khoản Zalo “Tài lộc” do Trần Ngọc Chung, sinh năm 1983, hộ khẩu thường trú: khu 11, xã TV, huyện Thanh Thủy, tỉnh PT sử dụng để chuyển bảng lô, đề cho Tình ngày 24/12/2020, Chung chưa thanh toán tiền cho Tình.
Cơ quan điều tra đã triệu tập Trần Ngọc Chung để làm rõ hành vi của Chung, tuy nhiên Chung vắng mặt tại địa phương, chính quyền địa phương xác nhận Chung đi khỏi địa phương, hiện nay không biết Chung ở đâu, làm gì. Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ điện tín tại Tổng Công ty hạ tầng mạng (VNPT Net) để xác định chủ thuê bao số điện thoại 0838.942.686 dùng đăng ký tài khoản Zalo “Tài lộc”, xác định chủ thuê bao là anh Nguyễn Trần Thông, sinh năm 1977, ở thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, anh Thông xác nhận không đăng ký sử dụng và không biết ai đang sử dụng số thuê bao trên, anh không quen biết Trần X T và Trần Ngọc Chung. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác định người sử dụng tài khoản Zalo “Tài lộc” để xử lý.
Đối với hành vi bán số lô, đề của Trần X T ngày 24/12/2020 cho tài khoản Zalo “Tài lộc”, mặc dù không xác định được người mua số lô đề của Tình, nhưng căn cứ vào lời khai của Tình và tin nhắn Zalo lưu trong điện thoại thu giữ của Tình có đủ căn cứ để buộc Tình phải chịu trách nhiệm đối với số tiền bán số lô, đề cho tài khoản Zalo “Tài lộc” là 6.260.000 đồng.
Sau khi bán số lô, đề cho Hà Văn X và các đối tượng nêu trên với số tiền 21.280.000 đồng, Trần X T giữ lại một số các số lô, đề để tự thanh toán, đồng thời ghi thêm các số lô đề với số tiền 6.980.000 đồng, sau đó tổng hợp lại rồi sử dụng điện thoại 01 điện thoại di động OPPO A1601, vào tại khoản Zalo “Napoly” chuyển bảng lô, đề với số tiền 28.260.000 đồng đến tài khoản Zalo “Vm”.
Cơ quan điều tra đã triệu tập Ngô Đức Vị, theo lời khai của Tình là chủ tài khoản Zalo “Vm”, đăng ký bằng số điện thoại 0363.390.381, Vị không thừa nhận hành vi mua bán số lô, số đề với Trần X T. Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ điện tín tại Tập đoàn viễn thông Quân đội Viettel đối với số điện thoại 0363.390.381, kết quả thu giữ xác định người đăng ký sử dụng số thuê bao 0363.390.381 là anh Lê Đình Năm, sinh năm 1986, ở xóm Lở, xã Lương Nha, huyện Thanh Sơn, tỉnh PT. Quá trình làm việc, anh Năm khai nhận không đăng ký và sử dụng số thuê bao 0363.390.381, anh Năm không biết và không có mối quan hệ gì với Ngô Đức Vị và Trần X T. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để chứng minh tài khoản Zalo “Vm” là của Vị, không có chứng cứ nào khác để xác định hành vi mua bán số lô, đề của Ngô Đức Vị với Trần X T. Do không đủ căn cứ để xử lý đối với hành vi của Vị, nên Tình không phải chịu trách nhiệm về hành vi tự mua số lô, đề với số tiền 6.980.000 đồng với tài khoản Zalo “Vm”.
Như vậy, tổng số tiền đánh bạc Trần X T phải chịu trách nhiệm hình sự ngày 24/12/2020 là 21.280.000 đồng.
Hành vi đánh bạc của Hà Văn X và Trần X T bị Cơ quan Điều tra phát hiện trước khi có kết quả mở thưởng xổ số kiến thiết miền Bắc ngày 24/12/2020 nên X, Tình chỉ phải chịu trách nhiệm với số tiền đã mua, bán số lô đề, cụ thể: Hà Văn X số tiền đánh bạc là 14.462.500 đồng, Trần X T số tiền đánh bạc là 21.280.000 đồng.
Ngoài ra, Hà Văn X và Trần X T còn khai nhận đã chuyển bảng lô, đề cho nhau từ ngày 18/12/2020, cả hai đều không nhớ số tiền cụ thể, sau khi chuyển bảng X và Tình đều đã xóa hết các tin nhắn liên quan đến việc mua bán số lô, đề nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý việc mua bán số lô, đề của X và Tình những ngày trước đó.
Quá trình điều tra, các đối tượng đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TT số tiền đánh bạc, cụ thể như sau: Hà Văn X giao nộp số tiền: 8.067.500 đồng; Thiều Văn T1 giao nộp số tiền 1.310.000 đồng; Trần Trung Kiên giao nộp số tiền 620.000 đồng; Nguyễn Văn Đ giao nộp 180.000 đồng; Thiều Quang L giao nộp số tiền 430.000 đồng.
Bản cáo trạng số 19/CT-VKSTT ngày 08/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TT, tỉnh PT truy tố bị cáo Trần X T, Hà Văn X về tội “Đánh bạc” theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà hôm nay Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện TT vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
* Căn cứ vào: Khoản 1, Điều 321; Điểm i, s Khoản 1, Điều 51; Khoản 1,2,5 Điều 65 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần X T.
* Căn cứ vào: Khoản 1, Điều 321; Điểm i, s, x Khoản 1, Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hà Văn X.
* Tuyên bố: Các bị cáo Trần X T và bị cáo Hà Văn X phạm tội “Đánh bạc”.
* Xử phạt:
1. Bị cáo Trần X T từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã TV, huyện TT, tỉnh PT để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ của người được hưởng án treo 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Bị cáo Hà Văn X từ 12 tháng đến 15 tháng Cải tạo không giam giữ, thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã TV, huyện TT, tỉnh PT nhận được Quyết định thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và Bản án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã TV, huyện TT, tỉnh PT giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Miễn khấu trừ thu nhập và miễn cho bị cáo không phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng.
* Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Trần X T và bị cáo Hà Văn X.
* Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Sung vào Ngân sách nhà nước số tiền 15.692.500 đồng(mười lăm triệu sáu trăm chín mươi hai nghìn năm trăm đồng).
- Truy thu số tiền 6.260.000đ(sáu triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng) của bị cáo Trần X T để sung vào Ngân sách nhà nước.
- Tịch thu bán phát mại để sung vào Ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A7 màu vàng đồng của Hà Văn X; 01 điện thoại OPPO A1601 màu vàng của Trần X T; 01 chiếc điện thoại Nokia 301 màu đen, của Thiều Văn T1.
- Tịch thu tiêu hủy chiếc thẻ sim, số thuê bao 0339.669.940 của Hà Văn X;
0961.721.666 của Trần X T; 0976.850.265 của Thiều Văn T1.
- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bút bi Thiên Long mực màu đen của Hà Văn X.
- Xác nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TT đã trả lại cho chủ sở hữu một số tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội là hợp pháp theo các biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 04/3/2021.
*Người bào chữa cho bị cáo Hà Văn X trình bày lời bào chữa: Đồng ý với quan điểm của Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân huyện TT về nội dung vụ án, về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Về hình phạt đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Hà Văn X và cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
1. Về tố tụng:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do. Kiểm sát viên, các bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xét thấy người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2. Về nội dung vụ án:
[1] Tại phiên toà các bị cáo Trần X T và Hà Văn X đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng, không oan sai. Lời khai nhận của các bị cáo tại cơ quan điều tra và lời khai tại phiên toà hôm nay đều thống nhất với nhau, phù hợp với lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận:
Ngày 24/12/2020, tại khu 11, xã TV, huyện TT, tỉnh PT,Trần X T có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức mua bán số lô, đề với Hà Văn X và một số đối tượng khác với tổng số tiền phải chịu trách nhiệm hình sự là 21.280.000 đồng; Hà Văn X có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức mua bán số lô, đề với Trần X T, Thiều Văn T1 và khách qua đường với tổng số tiền đánh bạc phải chịu trách nhiệm hình sự là 14.462.500 đồng. Do vậy hành vi của Trần X T và Hà Văn X đã cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất cứ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
[2] Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng. Tuy nhiên hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an ở địa phương, ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế gia đình, là nguồn gốc phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Do vậy cần phải xét xử nghiêm minh đối với các bị cáo để có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[3] Xét nhân thân, vai trò của các bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy rằng:
Các bị cáo đều không có tiền án, tiền sự là người có nhân thân tốt. Đây là vụ án có đồng phạm nhưng vai trò giản đơn, các bị cáo đều trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội của mình, bị cáo Tình phạm tội với số tiền lớn hơn, là người nhận bảng Lô, Đề của bị cáo X và các đối tượng khác nên phải chịu trách nhiệm cao hơn trong vụ án.
Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Khoản 1, Điều 52 BLHS.
Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo đã thể hiện sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” và “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại Điểm i, s Khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Hà Văn X, bản thân bị cáo tham gia kháng chiến, được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến, được chứng nhận là người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là“Người phạm tội là người có công với cách mạng….” theo Điểm x, Khoản 1, Điều 51 BLHS.
Các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú ổn định, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là ít nghiêm trọng. Do đó không nhất thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội chỉ cần áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với bị cáo Tình và hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính đối với bị cáo X cũng đủ điều kiện để cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành người công dân tốt.
Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại Khoản 3, Điều 321 BLHS các bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đ đến 50.000.000đ. Tuy nhiên bị cáo X là người có hoàn cảnh gia đình khó khăn, một mình nuôi các con bị tật nguyền nên HĐXX miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Đối với bị cáo Tình cần phạt bổ sung theo quy định là phù hợp.
Xét thấy do bị cáo X bị cáo sức khỏe yếu, bị nhiễm chất độc hóa học, có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên HĐXX miễn khấu trừ thu nhập và miễn cho bị cáo không phải lao động phục vụ cộng đồng.
[4]Về vật chứng: Đối với số tiền 15.692.500 đồng đã thu giữ là số tiền bị cáo X và các đối tượng sử dụng đánh bạc, cụ thể: bị cáo X 13.152.500đồng, Trần Trung Kiên 620.000 đồng; Nguyễn Văn Đ 180.000 đồng; Thiều Quang L 430.000 đồng, Thiều Văn T1 1.310.000 đồng, cần tịch thu để sung vào ngân sách nhà nước.
Số còn lại 6.260.000đ Tình khai bán số lô, đề cho Trần Ngọc Chung do không làm rõ được Chung nên Tình phải có trách nhiệm đối với số tiền này. Bị cáo Tình chưa giao nộp vì vậy cần truy thu sung vào Ngân sách nhà nước.
Đối với 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A7 màu vàng đồng, lắp sim số 0339.669.940 tạm giữ của Hà Văn X, 01 điện thoại OPPO A1601 màu vàng, lắp sim số 0961.721.666 tạm giữ của Trần X T là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu bán phát mại chiếc điện thoại để sung vào ngân sách nhà nước và tịch thu tiêu hủy chiếc thẻ sim.
Đối với 01 chiếc điện thoại Nokia 301 màu đen, lắp sim số 0976.850.265 tạm giữ của Thiều Văn T1 là công cụ, phương tiện dùng vào việc mua bán số lô, số đề với bị cáo X nên cần tịch thu bán phát mại chiếc điện thoại để sung vào ngân sách nhà nước và tịch thu tiêu hủy chiếc thẻ sim.
Đối với 01 chiếc bút bi Thiên Long mực màu đen không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Trong quá trình điều tra, cơ quan CSĐT công an huyện TT đã trả lại cho chủ sở hữu một số tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội là hợp pháp nên cần xác nhận.
[5] Đối với Thiều Văn T1, Trần Chung K, Nguyễn Văn Đ, Thiều Quang Luyện, Nguyễn Việt H là những người đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức mua số lô, số đề với Hà Văn X và Trần Văn Tình. Xét thấy, các đối tượng đánh bạc độc lập với X, Tình, số tiền sử dụng vào việc đánh bạc dưới 5.000.000 đồng, bản thân Thế, Kiên, Điền, Luyện, Hưng không có tiền án, tiền sự về tội "Đánh bạc” hoặc tội "Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc”, nên Cơ quan điều tra đã chuyển Công an huyện TT ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
[6] Đối với Ngô Đức Vị, theo lời khai của Tình là chủ tài khoản Zalo “Vm”, đăng ký bằng số điện thoại 0363.390.381, Vị không thừa nhận hành vi mua bán số lô, số đề với Tình. Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ điện tín tại Tập đoàn viễn thông Quân đội Viettel đối với số điện thoại trên, kết quả thu giữ xác định người đăng ký sử dụng số thuê bao này là anh Lê Đình Năm, sinh năm 1986, ở xóm Lở, xã Lương Nha, huyện Thanh Sơn, tỉnh PT. Quá trình làm việc, anh Năm khai nhận không đăng ký và sử dụng số thuê bao 0363.390.381, anh Năm không biết và không có mối quan hệ gì với Ngô Đức Vị và Trần X T. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để chứng minh tài khoản Zalo “Vm” là của Vị, không có chứng cứ nào khác để xác định hành vi mua bán số lô, đề của Ngô Đức Vị với Trần X T.
[7] Đối với chị Nguyễn Thị Hiền, quá trình điều tra xác định, chiều ngày 24/12/2020, X đến nhà chị Hiền chơi, chị Hiền không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của X, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là đúng quy định.
[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo Bản án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.
[9] Các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp. Đề nghị của Kiểm sát viên VKSND huyện TT tại phiên toà hôm nay là có căn cứ và đúng pháp luật nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ vào: Khoản 1, Điều 321; Điểm i, s Khoản 1, Điều 51; Khoản 1,2,5 Điều 65 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần X T.
* Căn cứ vào: Khoản 1, Điều 321; Điểm i, s, x Khoản 1, Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hà Văn X.
* Tuyên bố: Các bị cáo Trần X T và bị cáo Hà Văn X phạm tội “Đánh bạc”.
* Xử phạt:
1. Bị cáo Trần X T 12(mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24(hai mươi bốn) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã TV, huyện TT, tỉnh PT để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ của người được hưởng án treo 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Bị cáo Hà Văn X 12(mười hai) tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã TV, huyện TT, tỉnh PT nhận được Quyết định thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và Bản án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã TV, huyện TT, tỉnh PT giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Miễn khấu trừ thu nhập và miễn cho bị cáo không phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng.
* Về hình phạt bổ sung: căn cứ Khoản 3, Điều 321 Bộ luật hình sự;
- Phạt bị cáo Trần X T số tiền 10.000.000đ(mười triệu đồng) để sung vào Ngân sách nhà nước.
- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Hà Văn X.
* Về vật chứng: Căn cứ Khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2, 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Sung vào Ngân sách nhà nước số tiền 15.692.500 đồng(mười lăm triệu sáu trăm chín mươi hai nghìn năm trăm đồng), trong đó: của Bị cáo X 13.152.500 đồng; anh Trần Chung K 620.000 đồng; anh Nguyễn Văn Đ 180.000 đồng; anh Thiều Quang L 430.000 đồng; anh Thiều Văn T1 1.310.000 đồng.
- Truy thu số tiền 6.260.000đ(sáu triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng) của bị cáo Trần X T để sung vào Ngân sách nhà nước.
- Tịch thu bán phát mại để sung vào Ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A7 màu vàng đồng của Hà Văn X; 01 điện thoại OPPO A1601 màu vàng của Trần X T; 01 chiếc điện thoại Nokia 301 màu đen, của Thiều Văn T1.
- Tịch thu tiêu hủy chiếc thẻ sim, số thuê bao 0339.669.940 của Hà Văn X;
0961.721.666 của Trần X T; 0976.850.265 của Thiều Văn T1.
- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bút bi Thiên Long mực màu đen của Hà Văn X.
Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện TT đang quản lý, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/5/2021.
- Xác nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TT đã trả lại cho chủ sở hữu một số tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội là hợp pháp, theo các biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 04/3/2021, gồm: Trả lại cho bị cáo Hà Văn X 01 điện thoại Nokia RM màu trắng, 01 ví giả da và số tiền 10.000.000 đồng. Trả lại cho anh Ngô Đức Vị gồm: 03 ví giả da màu đen, 01 túi vải màu trắng xanh, 01 chứng minh nhân dân mang tên Ngô Đức Vị và số tiền 106.044.000 đồng. Trả lại cho bị cáo Trần X T số tiền 700.000 đồng.
*Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Trần X T, Hà Văn X mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
*Quyền kháng cáo:
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo Bản án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo phần quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ; để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh PT xét xử phúc thẩm.
Bản án về tội đánh bạc số 24/2021/HSST
Số hiệu: | 24/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | đang cập nhật |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về