Bản án về tội đánh bạc số 120/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 120/2022/HS-ST NGÀY 06/06/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 06 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 84/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2022/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Võ Vủ Đ, sinh năm 1990 tại Kiên Giang; thường trú: ấp X, xã H, huyện G, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn H, sinh năm 1965 và bà Trần Thị Cẩm V, sinh năm 1967; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại; có mặt.

2. Nguyễn Văn V, sinh năm 1973 tại Hậu Giang; thường trú: ấp 7, xã L, thị xã L, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th1, sinh năm 1943 và bà Huỳnh Thị H1, sinh năm 1942; có vợ tên Đinh Thị P, sinh năm 1977 và 02 con; lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Bản án số 03/2018/HS-ST ngày 22/01/2018 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương xử phạt 5.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, chấp hành xong hình phạt ngày 11/12/2019.

Bị cáo tại ngoại; có mặt.

3. Trương Văn V1, sinh năm 1980 tại Kiên Giang; thường trú: ấp V2, xã H1, huyện U, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn O, sinh năm 1953 và bà Lê Thị M, sinh năm 1953; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại; có mặt;

4. Mai Văn T1, sinh năm 1976 tại Cà Mau; thường trú: ấp 2, xã Tr, huyện Z, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 2/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn T2, sinh năm 1944 và bà Trần Thị B, sinh năm 1944; có vợ tên Dương Thị H2, sinh năm 1976 và 02 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 19/9/2014 bị Công an huyện Z, tỉnh Cà Mau xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc với số tiền 2.000.000 đồng, đã đóng phạt ngày 22/9/2014.

Bị cáo tại ngoại; có mặt;

5. Dương Quốc Th, sinh năm 1998 tại Sóc Trăng; thường trú: ấp B, xã T, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 1/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương C, sinh năm 1975 và bà Lý Thị Đà N, sinh năm 1974; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Vủ Đ, Nguyễn Văn V, Trương Văn V1, Mai Văn T1 và Dương Quốc Th quen biết nhau.

Khoảng 12 giờ ngày 20/7/2021, Đ đi bộ đến khu nhà trọ A tại khu phố Ô, phường J, thị xã T, tỉnh Bình Dương để tìm bạn. Tại đây, Đ gặp V1, V, T1 và Th đang ngồi nói chuyện trước phòng trọ số 16 (không có người thuê trọ) nên vào cùng nói chuyện. Đ thấy trong phòng trọ số 16 có một bộ bầu cua đã qua sử dụng không rõ của ai nên rủ V1, V, T1 và Th vào phòng trọ số 16 cùng đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức chơi lắc bầu cua, mỗi ván đặt cược số tiền 20.000 đồng đến 100.000 đồng. Khi bắt đầu chơi, T1 làm cái rồi sau đó chuyển sang Đ làm cái, khi chơi không có ai thu tiền xâu. Trong quá trình chơi đánh bạc, có một người phụ nữ (không rõ lai lịch) đi ngang nên vào cùng tham gia. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, người phụ nữ này không chơi nữa, không rõ thắng thua và đi đâu không rõ.

Đến khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, nhận được tin báo của nhân dân, lực lượng Công an phường J tiến hành kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang tại phòng trọ số 16 khu nhà trọ A có Võ Vủ Đ, Nguyễn Văn V, Trương Văn V1, Mai Văn T1 và Dương Quốc Th đang đánh bạc được thua bằng tiền và đưa tất cả về trụ sở Công an phường lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, đồng thời thu giữ trên người Võ Vủ Đ, Nguyễn Văn V và Mai Văn T1 tổng số tiền dùng vào mục đích đánh bạc là 9.080.000 đồng và 01 bộ bầu cua đã qua sử dụng. Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận như sau:

- Võ Vủ Đ khai mang theo 3.780.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này để đánh bạc. Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt quả tang, Đ thắng 1.200.000 đồng, bị thu giữ trên người tổng số tiền 4.980.000 đồng.

- Nguyễn Văn V khai mang theo 3.000.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này để đánh bạc. Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt quả tang, V không thắng, không thua, bị thu giữ trên người 3.000.000 đồng.

- Trương Văn V1 khai mang theo 450.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này để đánh bạc. Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt quả tang, V1 thua hết tiền.

- Mai Văn T1 khai mang theo 1.000.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này để đánh bạc. Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt quả tang, T1 thắng 100.000 đồng, bị thu giữ trên người tổng số tiền 1.100.000 đồng.

- Dương Quốc Th khai mang theo 140.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này để đánh bạc. Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt quả tang, Th thua hết tiền.

Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang và lời khai của các bị cáo về số tiền bị tạm giữ dùng vào mục đích đánh bạc khi bị bắt quả tang vào ngày 20/7/2021 xác định tổng số tiền Võ Vủ Đ, Nguyễn Văn V, Trương Văn V1, Mai Văn T1 và Dương Quốc Th sử dụng để đánh bạc là 9.080.000 đồng.

Bà Nguyễn Thị D là chủ sở hữu nhà trọ A không trực tiếp quản lý nhà trọ mà giao lại cho bà Phạm Thị H3 quản lý, thu tiền trọ. Ngày 20/7/2021, Võ Vủ Đ, Nguyễn Văn V, Trương Văn V1, Mai Văn T1 và Dương Quốc Th đến phòng trọ số 16 chơi đánh bạc thì bà H3 hoàn toàn không biết.

Đối với người phụ nữ (không rõ lai lịch) có hành vi cùng tham gia chơi đánh bạc dưới hình thức lắc bầu cua cùng với Võ Vủ Đ, Nguyễn Văn V, Trương Văn V1, Mai Văn T1 và Dương Quốc Th vào ngày 20/7/2021 nhưng đã nghỉ trước khi lực lượng Công an phường J phát hiện, bắt quả tang, quá trình điều tra đến nay chưa xác định được lai lịch người phụ nữ này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Bản Cáo trạng số 105/CT-VKSTU ngày 14/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Võ Vủ Đ, Nguyễn Văn V, Trương Văn V1, Mai Văn T1 và Dương Quốc Th về tội “Đánh bạc”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

- Về hình phạt:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Võ Vủ Đ từ 07 tháng đến 09 tháng tù;

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V từ 06 tháng đến 08 tháng tù; 

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trương Văn V1 từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng;

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17;Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Mai Văn T1 từ 06 tháng đến 08 tháng tù;

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Dương Quốc Th từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.

- Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 9.080.000 đồng; tịch thu, tiêu hủy 01 bộ bầu cua đã qua sử dụng.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Các bị cáo không có ý kiến gì trong phần tranh luận. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thu tuc tố tung: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận: Ngày 20/7/2021 tại khu phố Ô, phường J, thị xã T, tỉnh Bình Dương, Võ Vủ Đ, Nguyễn Văn V, Trương Văn V1, Mai Văn T1 và Dương Quốc Th có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức chơi lắc bầu cua thì bị bắt quả tang. Tổng số tiền mà Võ Vủ Đ, Nguyễn Văn V, Trương Văn V1, Mai Văn T1 và Dương Quốc Th sử dụng để đánh bạc là 9.080.000 đồng. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng tại địa phương. Các bị cáo nhận thức được Nhà nước nghiêm cấm việc đánh bạc dưới mọi hình thức nhưng vì động cơ tư lợi mà vẫn bất chấp pháp luật, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, để có tác dụng giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung trong xã hội cần có mức án tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện.

[4] Về vai trò: Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện tội phạm, trong đó bị cáo Đ là người rủ rê và cùng bị cáo T1 thay phiên làm cái cho các bị cáo khác đặt cược. Các bị cáo còn lại có vai trò là đồng phạm tích cực. bị cáo Đ có nhân thân xấu, đã bị TAND thị xã T xử phạt 5.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” tại Bản án số 03/2018/HS-ST ngày 22/01/2018.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, 05 bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo Đ, V1, T1, Th phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Ngoài ra, bị cáo T1 có bà nội tên Lý Thị Giác là Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng, có ông nội tên Mai Văn Năm là Liệt sĩ; bị cáo Đ có ông nội tên Võ V Đại là người có công với cách mạng. Vì vậy, bị cáo T1 và Đại được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo V1 và Th được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo V được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo Võ Vủ Đ, Nguyễn Văn V, Trương Văn V1 và Dương Quốc Th là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên, mức hình phạt đề nghị đối với Mai Văn T1 là chưa phù hợp, xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo T1 ra khỏi xã hội mà phạt tiền cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với số tiền 9.080.000 đồng thu giữ trên chiếu bạc là tang vật của vụ án nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước; đối với 01 bộ lắc bầu cua đã qua sử dụng là công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[9] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Võ Vủ Đ, Nguyễn Văn V, Trương Văn V1, Mai Văn T1 và Dương Quốc Th phạm tội “Đánh bạc”.

1. Về hình phạt:

1.1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Võ Vủ Đ 07 (Bảy) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án;

1.2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án;

1.3. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trương Văn V1 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng);

1.4. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Mai Văn T1 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng);

1.5. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Dương Quốc Th 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 9.080.000 đồng.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 bộ bầu cua, đã qua sử dụng.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/5/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc mỗi bị cáo Võ Vủ Đ, Nguyễn Văn V, Trương Văn V1, Mai Văn T1 và Dương Quốc Th phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 120/2022/HS-ST

Số hiệu:120/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;