TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 08/2024/HS-ST NGÀY 22/02/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong các ngày 19 và 22 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai, vụ án hình sự thụ lý số: 51/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn D, sinh năm 1980; Tại huyện A, tỉnh G;. Nơi cư trú: Ấp D, xã Đ, huyện A, tỉnh G;
Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1938 và bà Điêu Mai H, sinh năm 1949 (đã chết);
Chồng tên Đặng Ngọc T, sinh năm 1977; có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ - Công an huyện A từ ngày 29/8/2023 đến ngày 30/8/2023 áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng: Nguyễn Phước Đ, sinh năm 1984. Vắng mặt Trú tại: Ấp Đ, xã N, huyện A, tỉnh G.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn D tự làm thầu và trực tiếp bán số lô, số đề tại nhà thuộc ấp D, xã Đ, huyện A, tỉnh G dựa theo kết quả xổ số kiến thiết hàng ngày của các tỉnh miền Nam bằng hình thức trực tiếp hoặc qua điện thoại. Nguyễn D thực hiện bán số đề, số lô từ ngày 25/8/2023 đến ngày 29/8/2023 với tỷ lệ mua mỗi con số 1.000 đồng, trúng được 80.000 đồng, đối với người mua số bao lô thì mỗi con số mua 1.000 đồng thì phải trả cho D 15.000 đồng. Cụ thể các ngày Nguyễn D bán số đề, số lô như sau:
Ngày 25/8/2023, Nguyễn D bán số đề, số lô theo kết quả xổ số kiến thiết các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, Bình Dương cho nhiều người không nhớ tên, địa chỉ. Trong ngày, Thúy bán được tổng cộng 2.130.000 đồng và không có người trúng thưởng.
Ngày 26/8/2023, Thúy bán số đề, số lô theo kết quả xổ số kiến thiết các tỉnh Long An, Hậu Giang, Bình Phước và thành phố Hồ Chí Minh cho nhiều người không nhớ tên, địa chỉ. D bán số đề theo giải tám (giải trúng thưởng đầu tiên của kỳ quay số với 02 chữ số) được 600.000 đồng, số lô được 4.350.000 đồng, tổng cộng trong ngày D bán được 4.950.000 đồng. Trong đó có một người bao lô số 48 đài Long An với số tiền 30.000 đồng, trúng được 2.400.000 đồng và một người bao lô số 48 đài Bình Phước với số tiền 30.000 đồng, trúng được 2.400.000 đồng. D đã trả thưởng cho người trúng xong và không nhớ tên, địa chỉ. Như vậy, số tiền dùng để đánh bạc trong ngày là 9.750.000 đồng.
Ngày 27/8/2023, Thúy bán số đề, số lô theo kết quả xổ số kiến thiết các tỉnh G, Tiền Giang, Đồng Tháp cho nhiều người không nhớ tên, địa chỉ. D bán số đề theo giải tám (giải trúng thưởng đầu tiên của kỳ quay số với 02 chữ số) được 1.210.000 đồng, số lô được 2.550.000 đồng, tổng cộng trong ngày D bán được 3.760.000 đồng. Trong đó có một người bao lô số 13 đài G với số tiền 50.000 đồng, trúng được 4.000.000 đồng, D trả thưởng xong và không nhớ tên, địa chỉ. Như vậy, số tiền dùng để đánh bạc trong ngày 27/8/2023 là 7.760.000 đồng.
Ngày 28/8/2023, T bán số đề, số lô theo kết quả xổ số kiến thiết các tỉnh Đồng Tháp, Cà Mau, thành phố Hồ Chí Minh cho nhiều người không nhớ tên, địa chỉ. Thúy bán số đề theo giải tám (giải trúng thưởng đầu tiên của kỳ quay số với 02 chữ số) được 500.000 đồng, số lô được 6.000.000 đồng, tổng cộng trong ngày D bán được 6.500.000 đồng. Trong đó có một người bao lô số 79 đài Đồng Tháp với số tiền 20.000 đồng, trúng được 1.600.000 đồng, D đã trả thưởng xong và không nhớ tên, địa chỉ. Như vậy, số tiền dùng để đánh bạc trong ngày 28/8/2023 là 8.100.000 đồng.
Ngày 29/8/2023, D tiếp tục bán số đề, số lô theo kết quả xổ số kiến thiết các tỉnh Bạc Liêu, Vũng Tàu, Bến Tre cho nhiều người theo giải tám (giải trúng thưởng đầu tiên của kỳ quay số với 02 chữ số) được 1.000.000 đồng, số lô được 4.500.000 đồng, tổng cộng trong ngày D bán được 5.500.000 đồng, trong đó Nguyễn Phước Đời mua 2.000.000 đồng và một số người khác D không nhớ rõ. Khi Nguyễn D đang thực hiện việc ghi phơi đề thì lực lượng Công an huyện A bắt quả tang.
Vật chứng của vụ án gồm: 05 phơi số đề, số lô ghi trên giấy tập học sinh, 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu xanh màn hình cảm ứng bị rạn nứt nhiều chỗ, tiền Việt Nam 7.250.000 đồng.
* Tại bản Cáo trạng số 66/CT-VKSHAB ngày 25/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh G đã truy tố bị cáo Nguyễn D về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh G vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn D phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 36 Bộ luật Hình sự tuyên xử bị cáo Nguyễn D từ 15 tháng đến 18 tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ thời hạn đã tạm giữ.
Về biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước: Tiền Việt Nam 12.440.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu xanh màn hình cảm ứng bị rạn nứt nhiều chỗ.
Tịch thu tiêu huỷ 01 sim số 0949788744.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã hối hận, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tính chất, hành vi thực hiện tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa thể hiện:
Do muốn có tiên tiêu xài nên Nguyễn D tự làm thầu và trực tiếp bán số lô, số đề tại nhà thuộc ấp D, xã Đ, huyện A, tỉnh G dựa theo kết quả xổ số kiến thiết hàng ngày của các tỉnh miền Nam bằng hình thức trực tiếp hoặc qua điện thoại. Nguyễn D thực hiện bán số đề, số lô với tỷ lệ mua mỗi con số 1.000 đồng, trúng được 80.000 đồng, đối với người mua số bao lô thì mỗi con số mua 1.000 đồng thì phải trả cho D 15.000 đồng. Nguyễn D thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức bán số lô, số đề từ ngày 25/8/2023 đến ngày 29/8/2023 bị Công an huyện A bắt quả tang. Số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo theo từng ngày cụ thể: Ngày 25/8/2023 là 2.130.000 đồng; ngày 26/8/2023 là 9.750.000 đồng; ngày 27/8/2023 là 7.760.000 đồng; ngày 28/8/2023 là 8.100.000 đồng; ngày 29/8/2023 là 5.500.000 đồng. Bị cáo đã thu lợi bất chính tổng cộng 12.440.000 đồng. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện A truy tố bị cáo Nguyễn D về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội, bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi nhận thức được biết rõ đánh bạc dưới hình bán số lô, số đề ăn thua bằng tiền là một hình thức đánh bạc bị pháp luật cấm, nhưng vì lười lao động, muốn kiếm tiền nhanh chóng nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Bị cáo không suy nghĩ đến hậu quả của việc đánh bạc có thể dẫn đến tiêu tán tài sản, ảnh hướng đến kinh tế của nhiều gia đình, cá nhân và cũng là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Do đó, cần xét xử bị cáo một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội nhằm để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội. Đồng thời, qua xét xử nhằm tuyên truyền, ngăn ngừa chung loại tội phạm này trong xã hội. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội để tuyên xử mức án phù hợp.
Đối với hành vi của Nguyễn Phước Đời chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Công an huyện A đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định.
[3] Xét về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thực hiện hành vi bán số lô, số đề liên tục trong 05 ngày trong đó có 04 ngày đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn khai báo, tỏ ra biết ăn năn hối cải; đã tự nguyện nộp lại số tiền thu lợi bất chính, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo.
Xét thấy, bị cáo có 01 nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 51 và 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt tù giam để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là phù hợp với hành vi của bị cáo và mang tính răn đe.
[4] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước: Tiền Việt Nam 12.440.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu xanh màn hình cảm ứng bị rạn nứt nhiều chỗ.
Tịch thu tiêu huỷ 01 sim số 0949788744.
[5] Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn D phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn D phạm tội “Đánh bạc”.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn D 06 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Được khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 29/8/2023 đến ngày 30/8/2023.
2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước: Tiền Việt Nam 12.440.000 đồng, bị cáo đã nộp xong và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu xanh màn hình cảm ứng bị rạn nứt nhiều chỗ.
Tịch thu tiêu huỷ 01 sim số 0949788744.
(Theo quyết định chuyển vật chứng số 45/QĐ/VKSHAB ngày 25/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh G và theo biên lai thu số 0003178 ngày 19/02/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện A, tỉnh G).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn D phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 08/2024/HS-ST về tội đánh bạc
Số hiệu: | 08/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về