TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 99/2020/HS-PT NGÀY 11/12/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 134/2020/TLPT- HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn Th do có kháng cáo của bị cáo Th đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 98/2020/HS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn Th, sinh ngày 27/7/1989 tại tỉnh Tuyên Quang; nơi cư trú: Thôn Ninh Hòa, xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: không; con ông Nguyễn Văn Tiến và bà Trần Thị Xoa; có vợ là Lê Thị Thơ và có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/3/2020 đến nay, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Th: Ông Vũ Văn H – Luật sư, Công ty Luật TNHH Dương Gia. Địa chỉ: Số 89 Tô Vĩnh Diện, Thanh Xuân, Hà Nội.
Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo khác, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung bản án sơ thẩm; các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng giữa tháng 9 năm 2019, anh Trần Khương D (là cháu của Th) và Trần Minh V vào làm lao động thời vụ cho Công ty TNHH B&B Tech được khoảng 10 ngày thì nghỉ việc nhưng anh Vũ Duy T là người của Công ty TNHH B&B Tech chưa thanh toán tiền lương cho D và V nên D và V có nói chuyện với Nguyễn Văn Th biết. Th bảo D cho số điện thoại của T để Th đòi tiền giúp cho D và V.
Khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 21/3/2020, sau khi Th và Phan Đình Nh (bạn làm cùng công ty TNHH Công nghiệp chính xác Việt Nam I) đi ăn sáng xong thì Nh điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen BKS: 88K1- 358.75 chở Th đi về phòng trọ tại ngõ 18 đường Tôn Đức Thắng, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Trên đường đi, Th nói cho Nh biết việc anh Vũ Duy T còn nợ tiền công lao động thời vụ của V, D là cháu của Th, Th đã nhiều lần gọi điện thoại đòi tiền cho D và V nhưng T vẫn chưa trả. Th rủ Nh đi đòi tiền hộ cháu mình, Nh đồng ý. Sau đó, Th nhờ Nh dùng điện thoại của Nh gọi điện thoại cho T với nội dung “Anh có phải bên tuyển dụng lao động không? Em có 02 nam và 03 nữ muốn xin việc”, với mục đích để gặp T đòi tiền. T không biết là Th nhờ Nh gọi điện nên đồng ý và hẹn gặp tại công ty dịch vụ việc làm T&T Vina ở tổ dân phố Đê Hến, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc để bàn công chuyện.
Khoảng 13 giờ cùng ngày, Th và Nh đến trước cửa công ty dịch vụ việc làm T&T Vina thì gặp T đang đứng ở ven đường đợi. Th nói “Anh em mình đi lên quán nước trên kia để nói chuyện”, anh T đồng ý. Sau đó, Nh điều khiển xe mô tô chở Th đi trước đến quán nước của ông Đặng Văn Hồng ở đối diện cổng ra vào khu công nghiệp Bình Xuyên II đợi anh T. Tại đây, Th nhìn thấy ông Hồng để 01 con dao phay dài khoảng 40cm chuôi bằng gỗ dài 12cm, lưỡi bằng kim loại dài 29cm cạnh chùm dừa để ở ven đường trước cửa quán nước nên Th đi ra lấy con dao mang vào dùng để bổ quả dừa lấy cùi ăn. Khoảng 05 phút sau, anh T điều khiển xe mô tô đến thì Th quát to “Mày có trả tiền cho 02 thằng cháu tao không?”. Anh T nói “Cháu anh là ai? Làm ở công ty nào?”. Th bực tức và dùng tay tát vào mặt anh T 02 cái và nói “Cháu tao là D và V ở Tuyên Quang làm công ty mũ bảo hiểm”, đồng thời Th cầm con dao phay kề vào sau gáy anh T để đe dọa và nói “Mày có định trả tiền 02 thằng cháu tao không?”, lúc này Nh cũng lao vào dùng tay đấm vào mặt anh T nhưng anh T né được thì Nh tiếp tục dùng đầu gối đánh liên tiếp 3,4 phát vào mặt anh T làm anh T bị chảy máu tại đuôi lông mày bên trái.Trong lúc bị đánh, anh T có né tránh nên đã làm vỡ 01 chiếc ghế nhựa màu đỏ của quán nước thì Th bỏ dao xuống mặt bàn uống nước đồng thời tiếp tục tát 3, 4 phát vào mặt anh T. Do bị đánh, anh T hoảng sợ và nói với Th và Nh “Các anh cứ bình tĩnh để em lấy điện thoại tính tiền công cho cháu các anh xem được bao nhiêu”, mục đích để Th và Nh không đánh anh T nữa. Sau đó, anh T nói “Bây giờ em chỉ còn 1.000.000đ trong ví, các anh cầm tạm”, đồng thời rút ví ra đưa cho Th 02 tờ tiền mệnh giá 500.000đ. Th cầm tiền và quan sát thấy tại ngón tay áp út của anh T có đeo 01 chiếc nhẫn vàng có đính đá đỏ, thấy vậy Th quát to “Mày tháo chiếc nhẫn kia đưa cho tao, mai trả tao tiền thì tao trả lại nhẫn”. Do sợ hãi, anh T tháo chiếc nhẫn đưa cho Th, sau đó Th và Nh đi về phòng trọ của Th. Khi về đến phòng trọ, Th nói với Nh “Không biết chiếc nhẫn này có giá trị không, thôi quay lại công ty trả lại cho nó”. Sau khi sự việc xảy ra, anh T đến Công an huyện Bình Xuyên trình báo sự việc. Ngày 23/3/2020, Nguyễn Văn Th và Phan Đình Nh đã đến Cơ quan điều tra - Công an huyện Bình Xuyên đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Cơ quan điều tra thu giữ vật chứng gồm:
- Thu tại quán nước của ông Đặng Văn Hồng: 01 con dao có chiều dài 41cm, chuôi dao làm bằng gỗ dài 12cm, phần lưỡi dao bằng kim loại dài 29cm, bản lưỡi dao rộng Nh là 7cm, bé Nh là 5cm, đầu dao có 01 lỗ thủng hình tròn đường kính 01cm; 01 chiếc ghế nhựa bị vỡ.
- 01 chiếc nhẫn màu vàng, có mặt đá hình chữ nhật màu đỏ do chị Vũ Thị Lan giao nộp.
- Thu giữ của Nguyễn Văn Th 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia (IMEI 354198101261505), 01 ĐTDĐ Iphone X màu đen (IMEI 356738082278966);
- Thu giữ của Phan Đình Nh 01 ĐTDĐ Iphone 7 màu trắng (IMEI 359182072189338);
- Tạm giữ số tiền 1.000.000đ, 01 chiếc quần bò, 01 chiếc áo cộc màu đỏ sẫm do ông Nguyễn Văn Tiến là bố đẻ của Nguyễn Văn Th giao nộp; 01 chiếc quần bò, 01 chiếc áo cộc màu trắng do bà Trần Thị Tâm là mẹ của Phan Đình Nh giao nộp.
Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Xuyên đã trưng cầu Trung tâm giám định pháp y tỉnh Vĩnh Phúc giám định thương tích đối với anh Vũ D T, tuy nhiên anh T có đơn từ chối giám định thương tích và kiên quyết không hợp tác không cho giám định thương tích. Tại kết luận giám định pháp y về thương tích số 146 ngày 08/4/2020 Trung tâm giám định pháp y tỉnh Vĩnh Phúc đã kết luận do anh Vũ D T không hợp tác với giám định viên nên không đủ căn cứ để kết luận tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh T.
Cơ quan điều tra - Công an huyện Bình Xuyên đã ra trưng cầu Viện khoa học hình sự Bộ Công an giám định chiếc nhẫn màu vàng có đính đá màu đỏ đã thu giữ. Tại Kết luận giám định số 1843 ngày 09/4/2020, Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: “01 chiếc nhẫn kim loại màu vàng, mặt nhẫn có gắn 01 viên hình chữ nhật màu đỏ vào 10 viên đá nhỏ không màu xung quanh mặt nhẫn gửi đến giám định có tổng trọng lượng 7,55gam (tính cả 10 viên đá không màu), trong đó:
- Phần nhẫn kim loại màu vàng là vàng (Au), hàm lượng Au: 99,41% - 01 viên hình chữ nhật màu đỏ có khối lượng 1,32 gam là thủy tinh - 10 viên đá nhỏ không màu đều là đá Zircon” Hội đồng định giá tài sản huyện Bình Xuyên định giá đối với chiếc nhẫn của anh T.
Tại Kết luận định giá số 35 ngày 24/4/2020, Hội đồng định giá tài sản huyện Bình Xuyên, kết luận: “01 nhẫn kim loại bằng vàng, hàm lượng 99,41%, khối lượng 7,55 gam, trên mặt đá gắn 11 viên đá, trong đó 01 viên hình chữ nhật màu đỏ có khối lượng 1,32 gam là thủy tinh, 10 viên đá nhỏ không màu đều là đá Zircon”, trị giá 9.000.000đ.
Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn Th khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 98/2020/HS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên đã quyết định:
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 23 tháng 03 năm 2020.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định tội danh và hình phạt đối với bị cáo khác; xử lý vật chứng, quyết định án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02 tháng 10 năm 2020, bị cáo Nguyễn Văn Th có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu quan điểm, phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiện hình sự đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Th, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 98/2020/HS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa: thống nhất tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng với bị cáo, tuy nhiên cho rằng mức hình phạt mà tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là nặng vì bị cáo nhận thức pháp luật hạn chế và cũng một phần ức chế vì anh T không thực hiện trả tiền công đầy đủ cho cháu bị cáo; bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã trả lại tài sản là chiếc nhẫn ngay sau khi thực hiện hành vi phạm tội; ra đầu thú; đã bồi thường cho người bị hại, người bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự, do vậy bị cáo đáng được khoan hồng xử với mức hình phạt thấp hơn, đề nghị xử phạt áp dụng Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự để sửa án sơ thẩm xử phạt bị cáo với mức 03 năm 06 tháng tù là phù hợp.
Bị cáo Th nhất trí bản bào chữa của Luật sư và xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát thấy các tình tiết luật sư và bị cáo trình bày trên đã được xem xét đầy đủ tại cấp sơ thẩm, đã được cấp sơ thẩm cân nhắc để xử dưới khung hình phạt với mức án phù hợp, do đó giữ nguyên quan điểm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Th làm trong thời hạn luật định được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì, do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Về nội dung kháng cáo: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản án sơ thẩm đã tóm tắt nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị cáo khác và lời khai của bị hại; phù hợp với sơ đồ hiện trường, vật chứng vụ án đã thu giữ được cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, từ đó có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 21/3/2020, tại quán nước của ông Đặng Văn Hồng ở tổ dân phố Đê Hến, thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, Th và Nh có hành vi dùng dao phay đe dọa, dùng chân tay đánh anh Vũ D T rồi chiếm đoạt số tiền 1.000.000đ và 01 chiếc nhẫn vàng trị giá 9.000.000đ của anh T. Tổng giá trị tài sản Th và Nh chiếm đoạt là 10.000.000đ.
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Th, Nh về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.
[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn Th, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trước khi phạm tội bị cáo Th có nhân thân tốt, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ như cấp sơ thẩm đánh giá và được luật sư bào chữa cũng như bị cáo trình bày tại phiên tòa, tuy nhiên trong vụ án này xuất phát từ việc cháu bị cáo nói bị anh T nợ tiền, bị cáo không có quan hệ gì với người bị hại, không biết thực hư nợ thế nào, nợ bao nhiêu tiền, bị cáo không hỏi người bị hại có thiện trí trả không để kiện đòi theo quy định của pháp luật mà bị cáo lại rủ Nh đi đòi nợ anh T và thực hiện tội phạm. Như vậy, bị cáo Th tham gia phạm tội với vai trò chính, tham gia tích cực, trực tiếp dùng dao là hung khí nguy hiểm (phương tiện nguy hiểm) đe dọa và vũ lực tay, chân đánh anh T để chiếm đoạt tài sản của bị cáo là thể hiện sự coi thường pháp luật, gây mất trật tự an toàn trên địa bàn và bức xúc trong quần chúng nhân dân. Sau khi bị cáo dùng vũ lực lấy tiền, nhẫn của người bị hại là tội phạm đã hoàn thành, bị cáo đem trả lại cho bị hại (qua người khác) là thể hiện sự ăn năn, hối cải. Tòa án cấp sơ thẩm cân nhắc đầy đủ các tình tiết về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đầu thú, đã bồi thường đầy đủ, người bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho 2 bị cáo) để xử bị cáo mức hình phạt 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù (dưới khung hình phạt quy định – từ 07 năm tù đến 15 năm tù), là đã thể hiện tính khoan hồng đối với bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới;
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc là có căn cứ, vì vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Văn Th phải chịu án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Th; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 98/2020/HS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 23 tháng 03 năm 2020.
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Bị cáo Nguyễn Văn Th phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội cướp tài sản số 99/2020/HS-PT
Số hiệu: | 99/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về