Bản án về tội cướp tài sản số 779/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 779/2024/HS-PT NGÀY 20/09/2024 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 745/2024/TLPT-HS ngày 03 tháng 7 năm 2024, đối với bị cáo Lê Anh V và các bị cáo khác phạm tội “Cướp tài sản”, do có kháng cáo của các bị cáo, người đại diện hợp pháp của các bị cáo và bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 102/2024/HS-ST ngày 22 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

Các bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

1. Lê Anh V, sinh ngày 30 tháng 10 năm 2006 tại Hải Phòng (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 17 tuổi 01 ngày); nơi cư trú: Số 107/1/92 LTT, phường MC, Quận NQ, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị Thu T1; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ ngày 10/11/2023, chuyển tạm giam ngày 16/11/2023; có mặt.

2. Đặng Anh T2, sinh ngày 01 tháng 12 năm 2007 tại Hải Phòng (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 15 tuổi 11 tháng); nơi ĐKHKTT: Thôn TPh, xã THg, huyện KT, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện tại: Số 927 TL, phường KD, Quận LC, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ V hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn L và bà Nguyễn Thị Ng; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ ngày 28/02/2024, chuyển tạm giam ngày 01/3/2024; có mặt.

3. Lê Thanh H, sinh ngày 04 tháng 7 năm 2007 tại Hải Phòng (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 16 tuổi 04 tháng 03 ngày); nơi ĐKHKTT: Số 25/02 CVA, Phường LL, Quận NQ, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện tại: Số 106 DH, phường DH, Quận LC, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh Hg và bà Trịnh Thị Nh; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ ngày 10/11/2023, chuyển tạm giam ngày 16/11/2023; có mặt.

4. Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2006 tại Hải Phòng (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 17 tuổi 09 ngày); nơi cư trú: Số 12/52/14 NQ, phường MC, Quận NQ, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Huy Thg và bà Phạm Thị H1; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ ngày 10/11/2023, chuyển tạm giam ngày 16/11/2023.

5. Đặng Quý Nam A, sinh ngày 29 tháng 9 năm 2006 tại Hải Phòng (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 17 tuổi 01 tháng 08 ngày); nơi cư trú: Số 02/35/159 ĐĐ, phường ĐH, Quận LC, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Quý Cg và bà Vương Thị Diệu Ng1, chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ ngày 01/3/2024, chuyển tạm giam ngày 07/3/2024; có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo Lê Anh V, Nguyễn Tiến Đ: Bà Lương Thị Th1 - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo Lê Thanh H: Bà Trương Thị H2 - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo Đặng Anh T2: Bà Đoàn Thị H3 - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn xin vắng mặt và gửi bài bào chữa).

- Người bào chữa cho các bị cáo Đặng Quý Nam A: Ông Phạm Duy K1 - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Anh V có kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Thu T2, sinh năm 1977, nơi thường trú: Số 107/1/92 LTT, phường MC, Quận NQ, thành phố Hải Phòng (là mẹ đẻ của bị cáo); có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Đặng Anh T2 có kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1985, đều ĐKHKTT: Xã THg, H7ện KT, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện tại: Số 927 TL, phường KD, Quận LC, thành phố Hải Phòng (là bố mẹ đẻ của bị cáo).

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Th5 H có kháng cáo: Ông Lê Thanh H4, sinh năm 1963, nơi ở hiện tại: Số 106 DH, phường DH, Quận LC, thành phố Hải Phòng (là ông nội của bị cáo); có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Tiến Đ không có kháng cáo:

Ông Nguyễn Huy Thg, sinh năm 1982 và bà Phạm Thị H5, sinh năm 1984; nơi ở hiện tại: Số 12/52/14 NQ, phường MC, Quận NQ, thành phố Hải Phòng (là bố mẹ đẻ của bị cáo); có mặt bà Phạm Thị H5.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Đặng Quý Nam A không có kháng cáo: Ông Đặng Qúy Cg, sinh năm 1982 và bà Vương Thị Diệu Ng1, sinh năm 1987, nơi ở hiện tại: Số 2/35/159 ĐĐ, phường ĐH, Quận LC, thành phố Hải Phòng (là bố mẹ đẻ của bị cáo).

- Bị hại có kháng cáo:

+ Anh Trần Trung H6, sinh năm 1997, nơi ở hiện tại: 48 NBK, phường ĐQB, Quận NQ, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Bá H6, sinh ngày 1995, nơi thường trú: Số 4/65 TL, phường KD, Quận LC, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện tại: Số 60/01 VC, phường ĐG, Quận NQ, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo khác, người đại diện hợp pháp của các bị cáo, bị hại khác và người có liên quan không kháng cáo; không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ ngày 01/11/2023 đến 07/11/2023, Đỗ Đức T3, Vũ Sơn T4 cùng đồng bọn thường xuyên tụ tập, mang theo hung khí đi trên các tuyến đường trong khu vực nội thành Hải Phòng và đã gây ra một số vụ Cướp tài sản trên địa bàn thành phố. Cụ thể như sau:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 20 giờ ngày 01/11/2023, các đối tượng gồm Đỗ Đức T3, Vũ Sơn T4, Đặng Anh T2, Hà Ngọc A1, Nguyễn Tùng L2, Lê Anh V, Nguyễn Tiến Đ, Lê Minh Đ3 tập trung ở số nhà 36 ĐH, quận HA, thành phố Hải Phòng. Tại đây các đối tượng bàn bạc cùng nhau đi cướp bình khí cười. T3, T4, V, Ngọc A1, Nguyễn Tùng L2, T2 đồng ý tham gia. Trước khi đi các đối tượng chuẩn bị hung khí gồm 02 kiếm dài khoảng 50cm, 01 dao dài khoảng 40cm. Khi xuất phát, T2 cầm 01 kiếm giấu trong người, cho T3 cầm 01 kiếm, V chở Ngọc A1 cầm dao giấu trong người, T4 chở L2. T3 dẫn cả nhóm đi đến nhà số 48 NBK, phường LT, Quận NQ, thành phố Hải Phòng thì dừng lại. T2 lấy kiếm giấu trong người đưa cho T4 còn Ngọc A1 đi vào đến cửa nhà đứng bên ngoài gọi "Ông anh ra B3 cái này". Thấy nhóm đối tượng cầm hung khí nên chủ nhà là anh Trần Trung H6, sinh năm 1997 trú tại địa chỉ trên không mở cửa và kéo cửa cuốn bên trong xuống. Lúc này T4, T3, L2 đi vào còn T2 và V đứng ngoài cảnh giới. T4 cầm kiếm chém 01 nhát vào cửa, T3 dùng tay mở cửa. Sau khi T3 mở được cửa, T4, T3 cầm kiếm, Ngọc A1 cầm dao lao vào trong nhà khiến anh H6 hoảng sợ bỏ chạy ra phía cửa trước. T3 lấy hai B4 đựng khí cười ra đến cửa đưa cho L2 một B4, T4 lấy một bình đựng khí cười, Ngọc A1 lấy một loa Bluetooth nhãn hiệu Harman Kardon. Sau đó cả nhóm lên xe, mang theo bình khí đến khu vực gần trường THPT Lê Hồng Phong thuộc địa bàn phường Hạ Lý, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng để sử dụng khí còn lại trong bình. Sau đó, V mang 03 vỏ bình đi bán cho Bùi Thế Lg, sinh năm 2006, địa chỉ: 6B/111 MHX, phường DH K, Quận LC, thành phố Hải Phòng được 450.000 đồng. Cả nhóm sử dụng số tiền này chi tiêu chung rồi tất cả đi về. Còn chiếc loa Bluetooth, T4 đem bán cho Đặng Bằng L5, trú tại:

12/9/591 TL, phường VN, Quận LC, thành phố Hải Phòng được 3.400.000 đồng, chi tiêu cá nhân hết.

- Vụ thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 04/11/2023, phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave không có giấy tờ rao bán trên mạng, nên Phạm Gia B3 gọi điện cho các đối tượng Vũ Sơn T4, Phạm Hải S4, Nguyễn Văn Đ5, Đinh Hoàng Tùng L2, Đào Hoàng Quốc V, Đặng Anh T2, Nguyễn Tiến Đ, Vũ Đức Th3 nói "đã phát hiện chiếc xe Wave không giấy tờ, đến lấy lại chiếc xe này", tất cả đồng ý. B3 chia sẻ vị trí cho các đối tượng. Sau đó B3, Th5 chặn được Nguyễn Đình Đức Ch, sinh năm 2007 trú tại: Tổ dân phố AT, phường HN, quận DK, thành phố Hải Phòng và Trần Trung K, sinh năm 2005 trú tại: Tổ 20 HN, quận DK, thành phố Hải Phòng đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wawe mang biển kiểm soát: 15B2- 669.96 ở khu vực hồ An Biên, Quận NQ, thành phố Hải Phòng. Cùng lúc này T4, Đ5, Sơn, T2, Đ đi đến, các đối tượng dùng chân tay đánh Ch và K thì Đinh Hoàng Tùng L2 chở Đào Hoàng Quốc V đến, L2 lấy con dao mèo giấu trong người chỉ vào mặt Ch nói "mày ăn cắp xe bạn tao à". Sau đó L2 lấy xe Wave của Ch và nổ máy đi. Cả nhóm bắt đầu rời đi thì một người trong nhóm nghi Ch dùng điện thoại quay video nên cả nhóm quay lại. Sơn lấy điện thoại của Ch để kiểm tra, T4 cầm gạch đập vào đầu Ch, còn Đ5, Th5, B3, Đ dùng tay chân đánh vào người Ch. Ch ôm đầu nằm xuống đất. Sau đó cả nhóm rời đi. Đến ngày hôm sau V, L2 bán chiếc xe đã chiếm đoạt của Ch cho Phạm Đức Th5, sinh năm 2007, nơi cư trú: Phường TX, Thị trấn NĐ, H7ện KT, thành phố Hải Phòng được 7.100.000 đồng và sử dụng hết.

- Vụ thứ ba: Khoảng 23h30' ngày 06/11/2023, các đối tượng Đỗ Đức T3, Vũ Sơn T4, Đỗ Thành H7, Lê Anh V, Lê Thanh H, Nguyễn Văn Đ5, Phạm Gia B3, Vũ Ngọc B4, Nguyễn Hạo N6, Vũ Đức Th3, Phạm Hải S4, tập trung tại quán xôi ở khu vực đầu đường VC, NQ, Hải Phòng. Khoảng 05 phút sau, Đặng Anh T2, Lê Minh Đ3, Nguyễn Tiến Đ, Đặng Quý Nam A đến kể cho cả nhóm là bị nhóm khác đánh. Thấy vậy cả nhóm đứng dậy đi lấy hung khí để đi tìm đánh nhau. Riêng Đỗ Thành H7 và Nguyễn Hạo N6 không tham gia. T4 đi xe SH Mode, màu đen, biển số: 15B4 - 291.61 chở T3, những người còn lại đi khoảng 05 - 06 xe máy khác đến khu vực nghĩa trang Đông Khê, Quận NQ để lấy hung khí. Đến nơi V vào bụi cỏ lấy ra 01 cây tuýp sắt đầu nhọn dài khoảng 03 mét đưa cho T3 rồi cả nhóm đến khu 07 tầng ở đường Vũ Chí Th5, quận LC để lấy thêm hung khí. Đến nơi, T4 trèo lên mái của điện thờ trong khu 07 tầng lấy được 04 kiếm, đao phát cho Th5 01 kiếm, Gia B3 cầm 01 đao, B4 cầm 01 kiếm, T4 cầm 01 kiếm. Sau đó, Gia B3 gọi điện cho Đinh Hoàng Tùng L2 và Đào Hoàng Quốc V đến. Lê Minh Đ3 nói với cả nhóm: "vừa nãy mới bị bọn đi Wave chém", cả nhóm đồng ý đi tìm nhóm đã đánh Đ5. Đ5 dẫn cả nhóm đi các tuyến đường trung tâm thành phố nhưng không thấy. Khi đi đến đường Bạch Thái Bưởi (ngõ 01 VC), T3 nảy sinh ý định cướp bình bóng cười nên hộ to "đi cướp bóng đi" thì cả nhóm đồng ý và hưởng ứng đi theo T3. Đến nhà thứ nhất, T3, T4, B4, Th5 cầm hung khí lao vào thì T3 hô "không có gì" và cả nhóm lên xe đến nhà số 60/01 VC, phường Đằng Giang, Quận Ngô Quyên, thành phố Hải Phòng do anh Nguyễn Bá H6, sinh năm 1995, nơi ĐKHKTT: Số 4/65 TL, phường KD, Quận LC, thành phố Hải Phòng làm chủ. Lúc này, trong nhà có anh Nguyễn Đức Gig, sinh năm 2006 và một số người khác) thì Đ5 hô "kia rồi, thấy rồi", cả bọn dừng xe lại cho T3, T4, Th5, B3, B4 cầm hung khí lao vào. T3 cầm ống tuýp đâm về phía anh Gig; T4, Th5, B4 cầm kiếm, B3 cầm đao liên tiếp chém về phía Gig nhưng không trúng khiến anh Gig và những người trong nhà sợ hãi bỏ chạy vào bên trong. T4 chạy vào khu vực bếp lấy 02 bình khí cười vỏ màu xanh mang ra cửa thì rơi 01 bình, T2 nhặt lên ngồi sau xe H6, T4 cầm 01 bình lên xe của Văn Đ5 rồi cả bọn cầm hung khí lên xe mô tô bỏ đi. Trên đường đi, phát hiện thấy bình đã hết khí nên cả nhóm đã quay lại số nhà 60/01 VC tiếp tục gây sự đánh nhau với nhóm Th5 niên ở đó (lúc này có Hà Ngọc A1, sinh năm 2006, nơi cư trú: tổ 24, phường VN, quận LC, TP Hải Phòng và Phạm Nguyễn Nhật N6, sinh ngày 29/09/2008, nơi cư trú: Số 06/31/476 CH, phường DH K, Quận LC, thành phố Hải Phòng tham gia). Tại đây các đối tượng chửi bởi ném gạch đá và 01 bình khí cười vào nhà, sau đó bỏ đi.

Đến khoảng 03h00' cùng ngày, Phạm Hải S4 đi xe chở T3 ngồi sau cầm bình khí cười vừa cướp được; L2 đi xe chở V đi đến đường Hồ Sen, nhóm T3 đi xe đuổi theo nhóm này đến ngã tư Phúc Tăng, khu vực chợ H, đường NVL thì T3 cầm 01 bóng khí cười ném về phía nhóm đối phương. Sau đó, nhóm T3 tiếp tục đuổi theo nhóm đối phương đến khu vực Aeon Mall thì bị mất dấu nên cả nhóm giải tán.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 102/2024/HS-ST ngày 22 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, đã quyết định:

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm d, g khoản 2 Điều 168, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo, Lê Thanh H, Lê Anh V, Nguyễn Tiến Đ, Đặng Anh T2, Đặng Quý Nam A;

Áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đặng Anh T2, Nguyễn Tiến Đ;

Áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Th5 H, Đặng Quý Nam A;

Áp dụng thêm khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Anh V;

Tuyên bố các bị cáo Lê Thanh H, Lê Anh V, Nguyễn Tiến Đ, Đặng Anh T2, Đặng Quý Nam A phạm tội “Cướp tài sản”.

Xử phạt:

- Bị cáo Lê Anh V 06 (sáu) năm tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 10 tháng 11 năm 2023.

- Bị cáo Đặng Anh T2 05 (năm) năm tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 28 tháng 02 năm 2024.

- Bị cáo Lê Thanh H 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 10 tháng 11 năm 2023.

- Bị cáo Nguyễn Tiến Đ 06 (sáu) năm tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 10 tháng 11 năm 2023.

- Bị cáo Đặng Quý Nam A 05 (năm) năm tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 01 tháng 3 năm 2024.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác; xử lý vật chứng; quyết định án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 29/5/2024, người đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Anh V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ngày 31/5/2024, bị cáo Đặng Anh T2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đến ngày 23/7/2024, bị cáo có đơn xin rút kháng cáo.

Ngày 24/5/2024, người đại diện hợp pháp của bị cáo là bà Nguyễn Thị Ng (mẹ bị cáo) kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đến ngày 30/8/2024, bà Ng có đơn xin rút kháng cáo.

Ngày 28/5/2024, người đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Thanh H là ông Lê Thanh H4 (ông nội bị cáo) kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đến ngày 22/7/2024, ông Lê Thanh H4 (ông nội bị cáo) có đơn xin rút đơn kháng cáo.

Ngày 31/5/2024, bị cáo Nguyễn Tiến Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đến ngày 02/7/2024, bị cáo Đ có đơn xin rút kháng cáo.

Ngày 04/6/2024, bị cáo Đặng Quý Nam A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đến ngày 02/7/2024, bị cáo N6 có đơn xin rút kháng cáo.

Ngày 30/5/2024, bị hại anh Trần Trung H6 có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đặng Anh T2, Lê Anh V.

Ngày 29/5/2024, bị hại anh Nguyễn Bá H6 kháng có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Lê Anh V, Lê Thanh H, Đặng Anh T2.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Lê Anh V, Lê Thanh H, Đặng Quý Nam A, Nguyễn Tiến Đ, Đặng Anh T2 khai nhận hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm quy kết. Các bị cáo Nam A, Đ, T2 xác nhận sau khi có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt thì các bị cáo đã tự nguyện làm đơn xin rút kháng cáo; các bị cáo V, H6 không kháng cáo.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Lê Thanh H và bị cáo Đặng Anh T2 là ông Lê Thanh H4 (ông nội bị cáo H6) và bà Nguyễn Thị Ng (mẹ bị cáo T2) xác nhận sau khi có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt cho các bị cáo thì ông, bà đã làm đơn xin rút kháng cáo. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay, các ông bà mong Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị hại, giảm án cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét kháng cáo của các bị cáo và đại diện hợp pháp của các bị cáo: Sau khi có đơn kháng cáo, các bị cáo: Đặng Quý Nam A, Nguyễn Tiến Đ đã có đơn tự nguyện rút kháng cáo và các bị cáo Đ, N6 không bị kháng cáo, kháng nghị. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo Nguyễn Tiến Đ, Đặng Quý Nam A. Đối với các bị cáo Lê Anh V, Lê Thanh H, Đặng Anh T2: Đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Thanh H là ông Lê Thanh H4 đã có đơn xin rút kháng cáo; bị cáo Đặng Anh T2 và đại diện hợp pháp của bị cáo - bà Nguyễn Thị Ng đều đã có đơn xin rút kháng cáo. Tuy nhiên, các bị cáo này còn được bị hại là anh Trần Trung H6, Nguyễn Bá H6 kháng cáo xin giảm hình phạt; bị cáo V còn được đại diện hợp pháp là bà Nguyễn Thị Thu T2 kháng cáo xin giảm hình phạt. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo, đại diện hợp pháp của các bị cáo mà chỉ xem xét kháng cáo xin giảm hình phạt của các bị hại H6, H7. Xét kháng cáo của các bị hại và bà Th thấy: Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cân nhắc việc các bị cáo khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho các bị cáo và tuyên mức án là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên các quyết định về hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với các bị cáo V, H6, T2.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Anh V là bà Nguyễn Thị Thu T2 (mẹ bị cáo) xin giảm hình phạt cho bị cáo với lý do: Bị cáo tuổi đời còn trẻ, chưa hiểu biết pháp luật, chỉ a dua đi theo các bị cáo khác, không trực tiếp lấy tài sản của bị hại.

Người bào chữa cho bị cáo V là Luật sư Lương Thị Th1 trình bày: Nhất trí về tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét:

Bị cáo V tham gia 2 vụ án nhưng có vai trò thấp nhất; bị cáo có 4 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; các bị hại đều có kháng cáo xin giảm hình phạt cho bị cáo; sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã nộp tiền án phí sơ thẩm. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giảm cho bị cáo 01 năm tù.

Người bào chữa cho bị cáo Lê Thanh H là Luật sư Trương Thị H2 trình bày: Bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm, không trực tiếp tham gia lấy tài sản của bị hại; sau khi phạm tội, bị cáo đã ra đầu thú; bị cáo có hoàn cảnh giá đình khó khăn: mẹ bị cáo bỏ đi, bố bị cáo nghiện ngập, hiện bị cáo ở với ông nội. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo có vai trò ngang với bị cáo Nam A nhưng khi quyết định hình phạt thì bị cáo H6 lại phải chịu hình phạt cao hơn bị cáo Nam A. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo được bị hại Nguyễn Bá H6 kháng cáo xin giảm hình phạt cho bị cáo, đã nộp án phí sơ thẩm. Đây là các tình tiết mới, do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị hại, giảm án cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Đặng Anh T2 - Luật sư Đoàn Thị H3 vắng mặt nhưng đã gửi bản bào chữa cho bị cáo theo đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị hại H6, Hà để giảm án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo, đại diện hợp pháp của các bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đơn kháng cáo của các bị cáo Đặng Anh T2, Nguyễn Tiến Đ, Đặng Quý N6, bà Nguyễn Thị Thu T2 - đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Anh V, ông Lê Thanh H4 - đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Thanh H, bà Nguyễn Thị Ng - đại diện hợp pháp của bị cáo Đặng Anh T2, bị hại Trần Trung H6, Nguyễn Bá H6 đều làm trong thời hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Tiến Đ, Đặng Quý Nam A xác nhận sau khi làm đơn kháng cáo các bị cáo đã có đơn xin rút kháng cáo, các bị cáo không bị kháng cáo, kháng nghị. Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Thanh H là ông Lê Thanh H4, bị cáo Đặng Anh T2 và đại diện hợp pháp của bị cáo là bà Nguyễn Thị Ng xác nhận đã có đơn xin rút kháng cáo. Do đó, căn cứ Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo Nguyễn Tiến Đ, Đặng Quý Nam A và kháng cáo của bị cáo T2, đại diện hợp pháp của các bị cáo H6, T2 là ông H4, bà Ng. Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết đối với kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thu T2 (mẹ bị cáo Lê Anh V) và kháng cáo của các bị hại Trần Trung H6, Nguyễn Bá H6.

Xét việc vắng mặt các bị hại là anh Trần Trung H6, Nguyễn Bá H6 tại phiên tòa hôm nay: Các bị hại đã được triệu tập hợp lệ và nội dung kháng cáo của bị hại chỉ xin giảm hình phạt cho các bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các bị hại là anh H6, H7.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Lời khai của các bị cáo tại phiên toà và tại Cơ quan điều tra phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Lê Anh V, Đặng Anh T2, Lê Thanh H có hành vi phạm tội như sau:

[2.1] Khoảng 20 giờ ngày 01/11/2023, các bị cáo gồm: Đỗ Đức T3, Vũ Sơn T4, Đặng Anh T2, Hà Ngọc A1, Nguyễn Tùng L2 và Lê Anh V mang theo 02 kiếm dài khoảng 50cm, 01 dao dài khoảng 40cm đi đến nhà số 48 NBK, phường LT, Quận NQ, thành phố Hải Phòng. Tại nhà số 48 NBK, các bị cáo đã sử dụng dao, kiếm mang theo tấn công anh Trần Trung H6 và lấy đi 03 B4 khí cười, 01 loa Bluetooth nhãn hiệu Harman Kardo trị giá 2.900.000 đồng.

[2.2] Khoảng 23 giờ ngày 04/11/2023, các đối tượng gồm Phạm Gia B3, Vũ Sơn T4, Phạm Hải S4, Nguyễn V Đ5, Đinh Hoàng Tùng L2, Đào Hoàng Quốc V, Đặng Anh T2, Nguyễn Tiến Đ, Vũ Đức Th3 đã dùng dao đe dọa, dùng chân tay và gạch tấn công anh Nguyễn Đình Đức Ch, sau đó chiếm đoạt 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave trị giá 15.200.000 đồng.

[2.3] Khoảng 23h30' ngày 06/11/2023, các đối tượng gồm Đỗ Đức T3, Vũ Sơn T4, Lê Anh V, Lê Thanh H, Nguyễn Văn Đ5, Phạm Gia B3, Vũ Ngọc B4, Vũ Đức Th3, Phạm Hải S4, Đặng Anh T2, Lê Minh Đ3, Nguyễn Tiến Đ, Đặng Quý Nam A, Đinh Hoàng Tùng L2 và Đào Hoàng Quốc V đi đến nhà số 60/01 VC, phường Đằng Giang, Quận NQ, thành phố Hải Phòng do anh Nguyễn Bá H6 làm chủ và sử dụng tuýp sắt, kiếm, đao mang theo tấn công anh Nguyễn Đức Giang, sau đó lấy đi 02 bòng khí cười.

Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d, g khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Anh V và kháng cáo của các bị hại Trần Trung H6, Nguyễn Bá H6, Hội đồng xét xử thấy:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã chỉ xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, gây hoang mang, lo lắng và bức xúc trong nhân dân. Do đó, cần có mức hình phạt phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo để có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

Về vai trò phạm tội: Trong vụ án, các bị cáo Lê Anh V, Đặng Anh T2, Lê Thanh H đều tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức cho các bị cáo khác.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Đặng Anh T2 tham gia ba lần, Lê Anh V tham gia hai lần nên phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị hại Trần Trung H6 xin giảm hình phạt cho các bị cáo T2, V, bị hại Nguyễn Bá H6 xin giảm hình phạt cho cả ba bị cáo. Ngoài ra, bị cáo T2 còn có tình tiết giảm nhẹ: Người đại diện của bị cáo đã bồi thường tiền điều trị thương tích cho bị hại Ch, có bà nội tham gia thanh niên xung phong, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; các bị cáo V, H6 có các tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội các bị cáo đã ra đầu thú, bị cáo V có bà ngoại tham gia kháng chiến được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì nên các bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đối với các bị cáo Lê Anh V, Đặng Anh T2: Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ nêu trên cho các bị cáo và xem xét đến việc khi phạm tội các bị cáo chưa đủ 18 tuổi (trong đó bị cáo T2 chưa đủ 16 tuổi), để xử phạt: Lê Anh V 06 năm tù, Đặng Anh T2 05 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ, vai trò phạm tội của các bị cáo. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thu T2 và các bị hại H6, H7 để giảm hình phạt cho các bị cáo này.

Đối với bị cáo Lê Thanh H: Bị cáo chỉ tham gia một lần với vai trò đồng phạm giúp sức, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị hại có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo, đã nộp tiền án phí sơ thẩm. Do đó, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị hại Nguyễn Bá H6, giảm án cho bị cáo ngang bằng mức án đối với bị cáo Đặng Quý Nam A (là bị cáo có vai trò ngang với bị cáo) để bảo đảm sự công bằng của pháp luật.

[4] Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 348; điểm b khoản 1 Điều 351; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo Nguyễn Tiến Đ, Đặng Quý Nam A. Bản án hình sự sơ thẩm số 102/2024/HS-ST ngày 22/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đối với các bị cáo Đ, N6 có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hôm nay (20/9/2024).

2. Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thu T2 - đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Anh V, kháng cáo của các bị hại Trần Trung H6, Nguyễn Bá H6, giữ nguyên các quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 102/2024/HS-ST ngày 22/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đối với các bị cáo Lê Anh V, Đặng Anh T2, cụ thể:

- Áp dụng điểm d, g khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Anh V 06 (Sáu) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 10/11/2023.

- Áp dụng điểm d, g khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Anh T2 05 (Năm) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 28/02/2024.

3. Chấp nhận kháng cáo của bị hại Nguyễn Bá H6, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 102/2024/HS-ST ngày 22/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng về phần hình phạt đối với bị cáo Lê Thanh H, cụ thể:

- Áp dụng điểm d, g khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Thanh H 05 (Năm) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 10/11/2024.

4. Ghi nhận các bị cáo Lê Anh V, Lê Thanh H, Nguyễn Tiến Đ, Đặng Quý Nam A đã thi hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng theo các biên lai thu tiền của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng: Biên lai số 0000543 ngày 29/5/2024 (Đỗ Thị Thắm nộp thay Nguyễn Tiến Đ); Biên lai số 0000963 ngày 20/9/2024 (Đặng Quý Cg nộp thay Đặng Quý Nam A); Biên lai số 0000962 ngày 20/9/2024 (Lê Thanh H4 nộp thay Lê Thanh H); Biên lai số 0000541 ngày 29/5/2024 (Nguyễn Thị Thu T2 nộp thay Lê Anh V).

5. Án phí: Các bị cáo Lê Anh V, Lê Thanh H, Đặng Anh T2, Nguyễn Tiến Đ, Đặng Quý Nam A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

6. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 779/2024/HS-PT

Số hiệu:779/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;