Bản án về tội cướp tài sản số 206/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 206/2020/HS-PT NGÀY 11/05/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 5 năm 2020 tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 115/2020/TLPT- HS ngày 21 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo Đỗ Thanh T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo:

Đỗ Thanh T; sinh năm 1977 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: đường C, Phường B, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm công; trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông S1 và bà N; hoàn cảnh gia đình: có vợ và 5 người con, con lớn nhất sinh năm 1994, con nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/02/2019 (Có mặt) Bị hại: Bà Vũ Kha Thanh Th, sinh năm 1992 Trú tại: Đường M, Quận T1, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

Người tham gia tố tụng khác:

1. Ông Bùi Thành T2, sinh năm 1986 2. Ông Phạm Hữu T3 Người bào chữa cho bị cáo:

Ông Nguyễn Quang Đ, là luật sư của công ty Luật TNHH Tân Thành Luật thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh là luật sư bào chữa cho bị cáo (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 23/02/2019, Đỗ Thanh T thấy chị Vũ Kha Thanh Th điều khiển xe mô tô đến trụ ATM, đường Đ, Quận T1 để rút tiền. Do muốn có tiền tiêu xài, T nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của chị Th. Để thực hiện ý định trên T lấy 01 con dao rọc giấy dài 20cm x 03cm, cán màu xanh từ trong cốp xe mô tô có biển số 50N1-262.31 của T, rồi điều khiển xe mô tô đi đến trụ ATM. T đi vào trụ ATM thấy chị Th đang thực hiện việc rút tiền, trên tay có cầm 01 chiếc bóp màu hồng.

Tại cơ quan điều tra chị Th khai: Khi vào trụ ATM, T dùng tay trái giật chiếc bóp của chị Th, đồng thời T dùng tay phải lấy con dao rọc giấy trong túi áo khoác chĩa về phía chị Th nhằm đe doạ bắt bị Th đưa chiếc bóp. Chị Th giằng lại chiếc bóp và hô cướp, T và chị Th giằng co với nhau, T kéo chị Th ra đến xe mô tô của T thì quần chúng nhân dân hỗ trợ truy bắt T và giao cho Công an Phường 15, Quận 8.

Bản tự khai do bị cáo tự ghi ngày 23/02/2019 và các bản cung của bị cáo tại Cơ quan điều tra bị cáo khai: T mở cốp xe lấy con dao rọc giấy dài 20cm đi vào cây ATM mà người phụ nữ đang rút tiền nhằm đe dọa để chiếm đoạt tiền của người bị hại. T kêu người phụ nữ đưa tiền đây và giật lấy bóp tiền bằng tay trái, người phụ nữ giật lại. T mới rút dao ra từ túi áo ra bằng tay phải và đe doạ để lấy tiền của người phụ nữ. Lúc này người phụ nữ la lên cướp, cướp. T sợ quá định bỏ chạy thì bị người dân khống chế giao Công an. Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo T khai: Khi T vào trụ ATM thì T không có sử dụng dao rọc giấy nhằm đe dọa bị hại để chiếm đoạt tài sản. T thấy trên tay bị hại cầm chiếc bóp, T dùng tay giật chiếc bóp, bị hại giữ lại chiếc bóp và giằng co với T, sau đó bị hại hô cướp, T sợ bỏ chạy ra ngoài thì bị hại chặn đầu xe mô tô lại cùng người dân bắt giữ T. Con dao rọc giấy bị thu giữ là của T. T khai, T để con dao trong túi áo khoác bên phải, khi đến Công an phường, sợ quá nên T lấy con dao ra để vào túi quần phía sau bên trái. Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo cho biết lời khai tại Cơ quan điều tra là do Điều tra viên đọc cho T khai. Các bản hỏi cung, ghi lời khai Điều tra viên có đưa cho T đọc nhưng T không đọc.

Đồng chí Phạm Hữu T3 – Công an viên, Công an phường 15, Quận T1 cho biết: Biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và Biên bản bắt người phạm tội quả tang được lập tại trụ sở Công an phường 15, Quận 8 cùng ngày 23/02/2019 là do đồng chí T3 lập. Sau khi lập xong, đã đọc lại cho tất cả mọi người cùng nghe, đồng ý và ký tên. Con dao thu giữ của T là do người dân nộp cho Công an khi dẫn T về trụ sở Công an phường, Công an không có thu giữ con dao trong túi quần của T như T trình bày.

Đồng chí Bùi Thành T2 – Điều tra viên, Công an Quận 8 cho biết: Việc tiến hành điều tra đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bản tự khai là do tự bị cáo ghi, các biên bản ghi lời khai, hỏi cung bị cáo đều được tự đọc lại không có việc ép cung, mớm cung.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Đỗ Thanh T phạm tội “Cướp tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh T 07 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 23/02/2019.

Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo của bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/01/2020, bị cáo Đỗ Thanh T kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo tội “Cướp tài sản” là không đúng tội danh của bị cáo và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đỗ Thanh T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo cho rằng mình phạm tội Cướp giật tài sản chứ không phải tội cướp tài sản và xin giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa cho bị cáo T trình bày: Xin xem xét lại tội danh cho bị cáo, căn cứ vào việc người bị hại vẫn có thời gian giằng co tài sản như vậy bị cáo không thực sự dùng dao uy hiếp làm tê liệt ý chí của người bị hại ngay tức khắc. Bị cáo tại phiên tòa cũng khai không có ý định dùng dao gây nguy hiểm cho người bị hại. Lời khai của nhân chứng cũng không có sức thuyết phục, chưa cho đối chất giữa bị cáo, nhân chứng và người bị hại. Nên luật sư kiến nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung, phân tích tính chất vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội: Mặc dù tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, bị cáo có thay đổi lời khai và có mâu thuẫn với lời khai của bị hại. Tuy nhiên, căn cứ vào Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị hại, bản tự khai, lời khai ban đầu của bị cáo, người làm chứng phù hợp với vật chứng thu giữ, kết hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án nên xét thấy đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận:

Với ý định chiếm đoạt tài sản để mua ma túy sử dụng, vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 23/02/2019, khi phát hiện bị hại Vũ Kha Thanh Th đã vào trụ ATM gần hãng Sơn Á Đông trước đường Đ, Quận T1, bị cáo đã lấy con dao rọc giấy loại lớn màu xanh trong cốp xe của mình bỏ vào túi áo khoác rồi đi vào trong trụ ATM và dùng dao đe dọa bị hại nhằm cướp bóp tiền (bên trong có 1.350.000 đồng) trên tay của bị hại.

[2] Với hành vi như đã nêu trên của bị cáo, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc để giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Tuy tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã không thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải như khi bị bắt quả tang nhưng Hội đồng xét xử vẫn áp dụng cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tương ứng với mức độ thành khẩn của bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm cũng ghi nhận việc bị cáo không gây thương tích cho bị hại nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và xử phạt bị cáo mức hình phạt 07 năm tù.

[4] Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Đỗ Thanh T kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo tội “Cướp tài sản” là không đúng tội danh của bị cáo, bị cáo xin Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo T đã có hành vi dùng dao rọc giấy (là hung khí nguy hiểm) đe dọa để chiếm đoạt tiền của bị hại. Mặc dù bị cáo không sử dụng dao rọc giấy gây thương tích cho bị hại nhưng bị cáo đã có hành vi đem theo dao và sử dụng dao đe dọa làm cho bị hại sợ hãi để chiếm đoạt tài sản. Việc luật sư bào chữa cho rằng người bị hại không bị dùng dao đe dọa nên mới có thể phản kháng lại là không có cơ sở. Do đó, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm cũng áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và mức hình phạt 07 năm tù là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh T 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 23/02/2019.

2. Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 206/2020/HS-PT

Số hiệu:206/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;