Bản án về tội cướp tài sản số 193/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 193/2022/HS-PT NGÀY 30/05/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 359/2021/TLPT-HS ngày 27 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Lê Thị Tuyết H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 170/2021/HS-ST ngày 12 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thị Tuyết H, sinh năm: 1987, tại Đồng Nai.

Nơi đăng ký thường trú: tổ 25A, khu phố 4, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Giới tính: Nữ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Thanh H1, sinh năm 1965 và bà Trần Thị Thảo T, sinh năm 1967; Chồng Nguyễn Ngọc C, sinh năm: 1982 (đã chết), có 02 con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khởi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo H: Luật sư Đỗ Phú K – Công ty Luật TNHH K thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H; Địa chỉ: Công ty Luật TNHH K, P.101, số 60, đường L, phường 12, quận T1, Thành phố H; (có mặt).

- Bị hại: Anh Nguyễn Hồng T2, sinh năm: 1985; Nơi cư trú: Số 29/16A, khu phố 8, phường T3, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Thị T3, Lê Thị Tuyết H và Nguyễn Hồng T2 có quan hệ làm ăn chung trong việc mua bán đất đai. Quá trình làm ăn chung giữa T3 và T2 phát sinh mâu thuẫn trong việc nợ nần tiền bạc. Ngày 24/10/2019, Bùi Thị T3 gặp Nguyễn Văn K1 (tên gọi khác C) nhờ K1 tìm cách liên hệ để gặp T2 đòi tiền nợ giùm, K1 đồng ý. Do T2 đã chặn số điện thoại của T3 nên T3 không liên lạc được với T2. Vì vậy, T3 bàn với K1 giả vờ gọi điện thoại cho T2 để nhờ T2 làm giấy tờ đất, K1 đồng ý và gọi điện cho T2 giả vờ nói nhờ làm giấy tờ đất, T2 tin tưởng nên nhận lời và hẹn gặp nhau tại quán nước “Na Na” thuộc phường B1, thành phố B. Sau khi đã hẹn gặp T2, K1 rủ thêm Phạm Văn L (tên gọi khác N) đi cùng. L đồng ý, T2 thuê xe ô tô của vợ chồng Nguyễn Văn T4 và Mai Thị H2 để chở L, K1 đi đến địa điểm trên gặp T2. Khi đến quán nước “Na Na”, K1 và L xuống xe đi vào quán trước, còn T4, H2 và T3 ngồi trên xe, khi T2 đến quán gặp K1 thì T3 và H2 đi vào. Lúc này T3 đưa tờ giấy mượn nợ mà T2 viết mượn Lê Thị Tuyết H số tiền 211.000.000 đồng và yêu cầu T2 trả cho T3 số tiền 60.000.000 đồng (vì trước đó T3 đã ứng ra số tiền 60.000.000 đồng trả cho khách mua đất trong tổng số tiền 211.000.000 đồng mà T2 thiếu H). T2 cầm tờ giấy mượn nợ xem và nói “T2 nợ H chứ không nợ T3” thì T3 gọi điện thoại cho H đến. Trong lúc chờ H đến thì T2 cầm giấy nợ đi vào nhà vệ sinh xé bỏ. Khi H đến T3 phát hiện T2 đã xé bỏ giấy mượn nợ, nhiều lần H hỏi T2 giấy nợ đâu nhưng T2 không trả lời vì bực tức H ra cách chỗ T2, T3, K1, L ngồi khoảng 20m-30m để uống nước. T2 yêu cầu T3 viết lại giấy mượn tiền với nội dung T3 nợ T2 số tiền 60.000.000 đồng và nợ H số tiền 151.000.000 đồng (lúc này T3 xin H2 giấy để T2 viết thì H2 ra xe lấy) nhưng nhiều lần T2 cố tình viết sai nội dung nên bị K1 đấm vào mặt. Xong, K1 và L kéo T2 ra xe ô tô do T4 điều khiển đang đợi ở ven đường gần đó và ép buộc T2 lên xe của T4, H chứng kiến việc K1, L lôi, ép anh T3 lên xe. Khi lên xe H2 ngồi ghế bên phải cạnh T4, T2 ngồi giữa còn K1 và L mỗi người ngồi một bên giữ T2, T3 ngồi hàng ghế phía sau còn H điều khiển xe mô đi riêng một mình theo sau. Trên đường đi khi đến khu vực ngã tư V, thành phố B, T2 thấy nhiều người đi đường thì la lên để nhờ người giải cứu, thì bị L đấm một cái vào bụng do sợ bị đánh nên T2 không giám tiếp tục kêu cứu. Khi tất cả đến lô cao su thuộc khu 15, xã L1, huyện L2. Lúc này, H cũng đi xe mô tô đến nơi ngồi gần đó chứng kiến việc K1, L và T3 tiếp tục ép T2 viết giấy nợ T3 số tiền 60.000.000 đồng. Trong lúc đang viết giấy nợ, T2 thấy một xe ô tô bồn chạy ngang qua liền bỏ chạy để cầu cứu thì bị K1 lấy đoạn gỗ cao su đánh vào người và nói “giờ còn tờ giấy cuối cùng mày có viết không thì nói”, do sợ bị đánh nên T2 đã viết giấy nợ theo yêu cầu của T3 với nội dung T2 mượn T2 số tiền 60.000.000 đồng, (trong đó thế chấp xe mô tô biển số 60F2-858.45 với giá 30.000.000 đồng còn lại 30.000.000 đồng). Sau khi viết giấy nợ xong T3 ép T2 ký vào giấy nợ, đồng thời T3 nói H cho mượn thỏi son màu đỏ của H để T3 thoa vào ngón tay của T2 và bắt T2 điểm chỉ vào giấy nợ, đồng thời H2 và H ký xác nhận vào giấy với vai trò người làm chứng. T3 lục túi quần của T2 lấy ví đựng tiền, thấy có số tiền 1.400.000 đồng nên T3 lấy 1.000.000 đồng trả tiền thuê xe cho T4 và H2 còn T3 giữ lại 400.000 đồng. Sau đó cả nhóm lên xe ô tô đi về còn T2 đã đến Công an phường B trình báo sự việc.

2. Vật chứng thu giữ:

- 01 giấy cam đoan vay nợ;

- 01 xe mô tô biển số 60F2-858.45 kèm theo giấy đăng ký xe;

- 01 xe ô tô biển số 60A-242.93 kèm theo giấy đăng ký xe;

- 01 thẻ nhớ thu trên camera hành trình của xe ô tô biển số 60A-242.93;

- 01 USB ghi lại camera tại quán nước NaNa;

- 01 đoạn gỗ cao su dài 30cm đường kính 2,5cm.

Tai Ban kết luân định giá tài sản tố tụng hình sự số 31 ngay 23 thang 3 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Long Thành kết luân: 01 điện thoại di động hiệu Samsung A6 màu đen trị giá 2.300.000đồng (hai triệu ba trăm ngàn đồng), 01 điện thoại di động hiệu Nokia dạng điện thoại di động phổ thông đã qua sử dụng trị giá 200.000đồng (hai trăm ngàn đồng).

Tai Ban kết luân định giá tài sản tố tụng hình sự số 30 ngay 23 thang 3 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Long Thành kết luân: 01 xe mô tô biển số 60F2-858.45 có giá trị 24.500.000đồng (hai mươi bốn triệu năm trăm ngàn đồng).

Tại Bản cáo trạng số: 100/CT-VKSLT ngày 09 tháng 4 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Lê Thị Tuyết H về tội “Cướp tài sản” theo điểm d, đ khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

3. Quyết định của cấp sơ thẩm:

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 170/2021/HS-ST ngày 12/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành đã quyết định như sau:

- Căn cứ vào điểm d, đ khoản 2 Điều 168; khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 331 và Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Tuyết H phạm tội “Cướp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Tuyết H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

4. Kháng cáo:

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22 tháng 11 năm 2021, bị cáo Lê Thị Tuyết H kháng cáo bản án sơ thẩm cho rằng bị cáo không phạm tội.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã thay đổi yêu cầu kháng cáo, khai nhận hành vi phạm tội đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt.

5. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án:

Với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm nhận thấy Tòa án sơ thẩm tuyên bố bị cáo Lê Thị Tuyết H phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định điểm d, đ khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hinh sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xử phạt bị cáo Lê Thị Tuyết H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù là có căn cứ đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo có hoàn cảnh mẹ đơn thân nuôi hai con nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị hại có đơn xin giảm một phần hình phạt cho bị cáo và nên đề nghị xem xét.

6. Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Lê Thị Tuyết H:

Căn cứ hành vi phạm tội, trích lời khai của bị cáo cũng như những người làm chứng trong vụ án, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản vai trò là đồng phạm giản đơn nhưng do bị cáo là người thiếu hiểu biết nên cho rằng hành vi của mình là không phạm tội. Bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn, chồng đã chết từ năm 2016, có hai con gái lớn 13 tuổi và nhỏ 06 tuổi không ai chăm sóc nuôi dưỡng nếu bị cáo bị xử phạt tù giam, cha mẹ bị cáo đã ly thân, ông bà cha mẹ chồng nghèo và già yếu. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm. [2] Về tội danh:

Tại đơn kháng cáo ngày 22 tháng 11 năm 2021, bị cáo Lê Thị Tuyết H kháng cáo bản án sơ thẩm cho rằng bị cáo không phạm tội cướp tài sản như cáo trạng và bản án sơ thẩm xác định vì bị cáo H chỉ đến quán NaNa khi Bùi Thị T3 gọi đến để làm chứng số mà Nguyễn Hồng T2 nợ T3 số tiền 60.000.000đ, bị cáo không phải là đồng phạm với vai trò giúp sức, không có động cơ mục đích cướp tài sản như bản án sơ thẩm quy kết. Lời khai của các bị cáo khác đều xác định đi đòi nợ 60.000.000đ của T3 mà T2 chưa trả, tại phiên tòa sơ thẩm lời khai của bị hại T2 bất nhất, nên bị cáo kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo H không phạm tội cướp tài sản. Tuy nhiên tại hồ sơ và lời khai nhận tại phiên tòa phúc thẩm thì bị cáo H đã khai nhận: T2 có nợ H 151.000.000đ và T3 60.000.000đ tiền hùn mua bán đất. Do T2 và H có quan hệ tình cảm từ 2017 đến giữa 2019 thì chấm dứt, nên T2 viết giấy nợ ghi nợ của H 211.000.000đ, trong đó gồm nợ của H và T2. Giấy nợ là do T2 giữ để T2 đòi nợ T3.

H không chủ động và lên kế hoạch tổ chức gặp T2 mà sau khi Bùi Thị T3 gọi cho H đến quán caphe Nana tại phường B, điều này thể hiện tại lời khai của T3 (BL 108, 115): “Do xảy ra mâu thuẫn khi tôi yêu cầu T2 trả nợ vì T2 nói chỉ nợ H nên tôi gọi H đến để làm chứng. Khi đi đến quán caphee NaNa thì C xem giấy và nói giấy nợ là ghi Nguyễn Hồng T2 nợ chị H nên yêu cầu H đến để đòi nợ tôi mới gọi H đến, H có đi theo đến lô cao su tại Long thành” và tại các bản khai H đều thừa nhận đưa cây son môi cho T3 mượn để T3 bắt T2 điểm chỉ vào giấy nợ 60.000.000đ mà T2 nợ Bùi Thị T3 (đã được xét xử phúc thẩm theo Bản án số 282/2021/HSPT ngày 06/12/2021). Do đó đủ cơ sở xác định H đã đi theo nhóm T3, K1, L, H2… để đi theo sự chỉ dẫn của T3 (T3 và đồng bọn áp giải T2 ngồi trong xe ô tô) đi đến lô cao su tại Long Thành, bị cáo H đã đứng nói chuyện cũng như có hành vi đưa thỏi son môi cho T3 để bắt T2 lăn tay vào giấy nợ mà T2 nợ T2 60.000.000đ như vậy về mặt ý chí chủ quan của bị cáo H thì bị cáo phải biết nhóm T3, K1, L, H2… ép bị hại T2 lên xe ô tô chở đến lô cao su tại Long thành để bắt T2 viết giấy nợ, sau đó T3 đã lấy tài sản của T2, như vậy hành vi của H đã phạm tội “ cướp tài sản” ở mức độ giản đơn vì H không sử dụng số tiền mà T3 lấy của T2.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H đã thay đổi yêu cầu kháng cáo và khai nhận hành vi phạm tội như mô tả tại bản án sơ thẩm; bị cáo xác định không bị oan sai, đồng thời trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại cấp sơ thẩm bị cáo không bị ép cung hoặc dùng nhục hình, lời khai của bị cáo hoàn toàn chính xác và tự nguyện. Do đó, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Lê Thị Tuyết H về tội Cướp tài sản” theo điểm d, đ khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Thị Tuyết H gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Trong vụ án này, bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn với vai trò là người giúp sức.

Tại cấp phúc thẩm bị cáo trình bày do bị cáo thiếu hiểu biết pháp luật nhầm tưởng hành vi của mình là không phạm tội nên bị cáo đã thay đổi yêu cầu kháng cáo, khai nhận hành vi phạm tội như mô tả tại bản án sơ thẩm đồng thời kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Xét thấy, do bị cáo phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể, bị cáo cung cấp đơn xác nhận hoàn cảnh khó khăn, là mẹ đơn thân, chồng đã chết từ 2016, có hai con đều là con gái, lớn sinh 2009 và nhỏ sinh 2016 do địa phương xác nhận. Đồng thời, trong vụ án này anh Nguyễn Hồng T2 cũng có một phần lỗi. Lẽ ra, khi xác định có hay không có việc anh T2 nợ T3 và bị cáo H, khi tất cả gặp nhau tại quán cà phê Na Na giữa anh T2, T3 và bị cáo H có thể thoả thuận, bàn bạc về việc nợ. Nhưng khi T3 đưa ra giấy nợ, anh T2 lại thực hiện hành vi tiêu huỷ giấy nợ. Hành vi của anh T2 là nguyên nhân trực tiếp để các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đối với anh T2. Tại phiên tòa phúc thẩm, anh Nguyễn Hồng T2 cũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị nên vẫn giữ nguyên.

[5] Nhận định về ý kiến bào chữa của luật sư tại phiên toà:

Luật sư cho rằng việc bị hại có nợ tiền T2 và H là có thật. Xét hành vi phạm tội và trích lời khai của bị cáo cũng như những người làm chứng trong vụ án, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản vai trò là đồng phạm giản đơn nhưng do bị cáo là người thiếu hiểu biết pháp luật nhầm tưởng hành vi của mình là không phạm tội, hoàn cảnh của bị cáo rất khó khăn, chồng đã chết từ năm 2016, hai con gái 13 và 06 tuổi không ai chăm sóc nuôi dưỡng nếu bị cáo bị xử phạt tù giam, cha mẹ bị cáo đã ly thân, ông bà cha mẹ chồng nghèo và già yếu, mong Hội đồng xét xử xem xét. Đề nghị của Luật sư là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật nên chấp nhận.

[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án sơ thẩm số:

170/2021/HSST ngày 12/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành.

2. Căn cứ vào điểm d, đ khoản 2 Điều 168; khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Tuyết H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các phần khác của Bản án hình sự sơ thẩm số: 170/2021/HSST ngày 12/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

836
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 193/2022/HS-PT

Số hiệu:193/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;