Bản án về tội cướp giật tài sản số 57/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 57/2022/HS-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2022/TLST- HS ngày 27 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2022/QĐXXST - HS ngày 14 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

Hoàng Xuân T, sinh năm 1989 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn C, xã N, huyện AD, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn Nh (đã chết) và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1967; vợ: Nguyễn Thị Th; có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; quá trình nhân thân: Bản án số 122 ngày 19/9/2018 Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt Hoàng Xuân T 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản. Thời gian thử thách 24 tháng. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Ngày 19/9/2020 Hoàng Xuân T đã chấp hành xong thời gian thử thách của người được hưởng án treo. Ngày 28/02/2019, Trường nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo bị tạm giữ ngày 02/11/2021, chuyển tạm giam ngày 11/11/2021; có mặt.

+ Bị hại: Chị Đào Thị Thu H; sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn 3, xã B, huyện AD, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Tạ Xuân Q, sinh năm 1978; địa chỉ: Số 4 Lô C1, ngõ 2B Phạm Phú Th, phường H, quận H, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 20/10/2021, Hoàng Xuân T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Vision BKS 15C1-28576 đến khu vực ngã tư Long Thành, thuộc xã N, huyện AD, thành phố Hải Phòng phát hiện chị Đào Thị Thu H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Vision BKS 15C1-20157 đi ngược chiều, tại hốc xe mô tô bên trái chị H để 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92. Trường nảy sinh ý định lấy chiếc điện thoại di động trên nên đã điều khiển xe mô tô quay lại, đi theo xe chị H. Khi chị H rẽ vào tuyến đường liên xã thuộc thôn Q, N, AD thì T tăng ga áp sát vào phía bên trái xe mô tô của chị H, dùng tay phải nhanh chóng giật chiếc điện thoại di động trong hốc xe máy của chị H rồi phóng xe bỏ chạy. Đi được một đoạn, T cho điện thoại vào túi quần bên trái, rồi về nhà. Sau đó, T gọi điện thoại cho Tạ Xuân Q để cầm chiếc điện thoại trên lấy 800.000 đồng, sử dụng ăn tiêu cá nhân hết. T không nói cho Q nguồn gốc chiếc điện thoại. Chị H đuổi theo nhưng không kịp nên đã đến Cơ quan Công an xã N trình báo. Ngày 02/11/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện AD bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Hoàng Xuân T. Chị Đào Thị Thu H đã nhận lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 màu tím xanh. Chiếc điện thoại này do Tạ Xuân Q giao nộp cho Cơ quan Công an. Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Vision màu đen đỏ BKS 15C1-28576 thu giữ tại nơi ở của T, tài liệu điều tra xác định đăng ký chủ sở hữu hợp pháp mang tên chị Nguyễn Thị T (vợ của Hoàng Xuân T), chị T hiện vắng mặt tại địa phương, Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện An Dương tách ra tiếp tục tạm giữ xe mô tô nêu trên, xác minh xử lý sau. Đối với Tạ Xuân Q khi cầm cố chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A92 cho Hoàng Xuân T, Q không biết chiếc điện thoại do T phạm tội mà có nên chưa đủ căn cứ xử lý đối với Q.

Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Xuân T khai: Ngày 20/10/2021, Hoàng Xuân T điều khiển xe mô tô phát hiện bị hại để điện thoại trên hốc xe máy nên đã điều khiển xe áp sát xe máy của chị H rồi giật điện thoại của chị H và bỏ chạy.

Cáo trạng số 58/CT-VKS ngày 24 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương đã truy tố bị cáo Hoàng Xuân T về tội “ Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; các điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Xuân T từ 04 đến 05 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận được chiếc điện thoại, người có quyền lợi liên quan cũng không có yêu cầu bồi thường nên không đề cập giải quyết.Về vật chứng trong vụ án: Tịch thu tiêu hủy vì không còn giá trị sử dụng và bị cáo không có yêu cầu nhận lại.

Khi nói lời nói sau cùng, bị cáo đã ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại; phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, kết hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận: Ngày 20 tháng 10 năm 2021 Hoàng Xuân T điều khiển xe môtô phát hiện thấy chị H đang đi xe môtô có để điện thoại ở hốc xe máy nên đã áp sát xe máy giật chiếc điện thoại của chị H (Kết luận định giá ngày 11/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện An Dương kết luận 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 màu tím xanh có giá trị 4.000.000 đồng), bị cáo Hoàng Xuân T đã phạm tội “ Cướp giật tài sản” theo điểm d (dùng thủ đoạn nguy hiểm ) khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo hộ, gây nguy hiểm cho xã hội nên cần áp dụng hình phạt tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải”, quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 (ông nội bị cáo tham gia kháng chiến được thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì) Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về phần hình phạt: Nhân thân bị cáo đã có một lần bị kết án về tội trộm cắp tài sản nhưng bị cáo chưa chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, vì vậy cần áp dụng mức hình phạt tù trên mức khởi điểm của khung hình phạt để có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 171 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung nhưng xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về dân sự: Chị Đào Thị Thu H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt nên không còn yêu cầu bồi thường thiệt hại nào khác, anh Tạ Xuân Q không có yêu cầu gì đối với số tiền 800.000 đồng đã cầm cố chiếc điện thoại cho T nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7]. Về xử lý vật chứng: 01 đôi dép màu trắng trên quai dép có chữ Adidas, dưới đế dép ghi size 41 và dòng chữ “Made in VietNam”; 01 mũ bảo hiểm màu đen dạng nửa đầu; 01 khẩu trang y tế màu xanh đã qua sử dụng; 01 kính mắt màu đen gọng vàng nhãn hiệu Rayban; 01 áo sơ mi dài tay màu xanh đen hoa văn màu vàng đồng, sau cổ áo có in nhãn hiệu Vulcano; 01 quần bò dài màu xanh size 32 (được thu giữ tại nơi ở của T). Những tài sản, vật dụng này T đã sử dụng khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản của chị H, không còn giá trị sử dụng, bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; các điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Xuân T 04 (bốn) năm tù về tội: “ Cướp giật tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 02/11/2021.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 đôi dép màu trắng trên quai dép có chữ Adidas, dưới đế dép ghi size 41 và dòng chữ “Made in VietNam”; 01 mũ bảo hiểm màu đen dạng nửa đầu; 01 khẩu trang y tế màu xanh đã qua sử dụng; 01 kính mắt màu đen gọng vàng nhãn hiệu Rayban; 01 áo sơ mi dài tay màu xanh đen hoa văn màu vàng đồng, sau cổ áo có in nhãn hiệu Vulcano; 01 quần bò dài màu xanh size 32 (Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu ,vật chứng ngày 24 tháng 6 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện An Dương,thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Hoàng Xuân T phải chịu 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 57/2022/HS-ST

Số hiệu:57/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;