TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 128/HSPT NGÀY 25/03/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Trong các ngày 18 và 25 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh - số 26 Lê Thánh Tôn, phường Bến Nghé, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 602/2020/TLPT-HS ngày 25/12/2020 do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trường G, người bào chữa của bị cáo G đối với bản án hình sự sơ thẩm số 317/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Trường G, sinh ngày 10/9/2004 tại tỉnh C; nơi thường trú: ấp Tân Định, xã D, huyện E, tỉnh C; nơi cư trú: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn N và bà Cao Thị T; Tiền án: không, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 16/3/2021 bị Tòa án nhân dân Thành phố B xử phạt 3 năm tù về tội “Giao cấu với người dưới 16 tuổi; bị bắt tạm giam ngày 14/3/2020 đến ngày 23/3/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Ngày 03/7/2020, bị Công an quận B bắt tạm giam (có mặt).
Bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị: Nguyễn Quốc T(không triệu tập).
Người tham gia tố tụng khác có kháng cáo: Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Hữu T1- luật sư Văn phòng luật sư T1 và cộng sự thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trường G (có mặt).
- Người bị hại: Chị Bùi Thị Huyền T2, sinh năm 1997; nơi cư trú: 97/12 đường số 9, khu phố 5, phường N, Thành phố B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1979 và bà Cao Thị T, sinh năm 1985, địa chỉ: phường M, Thành phố B, Thành phố Hồ Chí Minh, là cha mẹ của bị cáo Nguyễn Trường G (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Vũ Quỳnh D (không triệu tập).
- Người đại diện hợp pháp của có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Hoàng Thị Vui, Trần Thanh T3 (không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 12/3/2020, Bùi Quốc Th điều khiển xe mô tô Honda Vision màu nâu biển số 59X2-259.26 đến uống nước tại quán cà phê Anh Em Quán thuộc Thành phố Q, tỉnh O thì gặp Vũ Quỳnh D. Tại đây, T rủ D đi cướp giật tài sản nhưng D không đồng ý. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, T chạy xe đến trước cổng bệnh viện quận B thuộc phường Tam Phú, quận B gặp Đoàn Thanh P và Trịnh Nguyễn Hoàng K, T tiếp tục rủ P, K đi giật điện thoại, P, K không đồng ý. T nhờ K dẫn đi tìm Nguyễn Trường G, T điều khiển xe máy chở K đến khu vực Bến Đò thuộc phường Linh Đông, quận B thì gặp G. Tại đây, T lấy lý do nhờ G gặp D đòi tiền giùm, G đồng ý. T chở G, K để đưa K về nhà trên đường Kha Vạn Cân thuộc phường Linh Đông, quận B. Trên đường đi, T rủ G đi vòng vòng tìm người có đồ để giật, G đồng ý. T điều khiển xe mô tô biển số 59X2-259.26 chở G ngồi sau từ khu vực bệnh viện quận B ra đường Phạm Văn Đồng, phường N, quận B để tìm nguời có tài sản cướp giật. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 13/3/2020, khi đến trước chùa Ni Viện Long Nhiễu trên đường Phạm Văn Đồng, phường N, quận B thì T và G phát hiện bà Lê Thảo D1điều khiển xe mô tô Sirius biển số 77G1-394.11 chở bà Bùi Thị Huyền T2 đeo túi xách bên vai phải (bên trong túi xách có 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus, 01 tai nghe Airpod 2, 01 giấy chứng minh nhân dân, 02 giấy phép lái xe, 02 thẻ ATM, 01 thẻ VinGroup và 440.000 đồng để trong ví da màu nâu) nên tăng ga áp sát phía bên phải xe bà Dung, G ngồi sau dùng tay trái giật lấy túi xách của bà T1.
Sau đó, T nhanh chóng chạy thoát về quán cà phê Anh Em Quán thuộc T phố Q, tỉnh O gặp D. T và G mỗi người chia nhau được 200.000 đồng, còn 40.000 đồng T đổ xăng xe. G lấy cái ví da, còn T đưa 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus, 01 tai nghe Airpod 2, 01 giấy chứng minh nhân dân, 02 giấy phép lái xe, 02 thẻ ATM, 01 thẻ VinGroup cho D giữ giùm, rồi T điều khiển xe mô tô biển số 59X2-259.26 chở G về. Lúc này, Trần Thanh T3 đến quán cà phê Anh Em Quán, thấy D có điện thoại Iphone 6 Plus nên hỏi D thì D nói điện thoại do T và G đi cướp giật đưa D giữ giùm, T1 nhìn thấy hình trong điện thoại là chị họ của Thanh D2. Sau đó, T1 điện thoại cho D2 và nói sự việc trên, cả hai khuyên D trả lại đồ. Khoảng 19 giờ 00 cùng ngày, T1 và D2 điện thoại cho bà T1 hẹn đến cây xăng số 3, địa chỉ số 777 Kha Vạn Cân, khu phố 2, phường N, quận B để trả lại tài sản đã mất. Bà T1 đến Công an trình báo sự việc, bà đến cây xăng số 3 gặp T1 và D2 nhận lại tài sản. Khi đang giao trả tài sản cho bà T1 thì D2, T1 bị Công an mời về làm việc. Sau đó, Cơ quan điều tra Công an quận B ra lệnh bắt Bùi Quốc Th, Nguyễn Trường G.
Tại Cơ quan điều tra, Bùi Quốc Th và Nguyễn Trường G khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Kết luận định giá tài sản số 903/CV-HDĐGTSTTTHS ngày 14/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận B kết luận: Điện thoại di động Iphone 6 Plus màu trắng trên trị giá 3.000.000 đồng; tai nghe Wreless Apple Airpod 2 trị giá 2.500.000 đồng; ví da màu nâu trị giá 90.000 đồng; túi vải màu trắng có in chữ Special trị giá 15.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là 5.605.000 đồng.
Vật chứng vụ án:
- Một xe Honda Vision, màu đỏ, biển số 59X2-259.26 do bà Bùi Thị Dung là mẹ của Bùi Quốc Th đứng tên giấy đăng ký xe. Bà Dung khai nhận khoảng 14 giờ ngày 12/3/2020, T sử dụng xe mô tô trên đi mua bánh tráng, đến 22 giờ ngày 13/3/2020 T về nhà. Sau đó, Công an mời T làm việc thì bà Dung mới biết T sử dụng xe mô tô trên đi cướp giật tài sản. Ngày 19/3/2020, Cơ quan điều tra trả cho bà Dung là chủ sở hữu.
- 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu trắng, 01 ví da màu nâu, 01 túi vải màu trắng có in chữ Special, 01 giấy chứng minh nhân dân; 02 giấy phép lái xe; 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank; 01 thẻ ATM ngân hàng VP Bank; 01 thẻ VinGroup mang tên Bùi Thị Huyền T2. Cơ quan điều tra trả cho chị Bùi Thị Huyền T2 là chủ sở hữu.
- 01 tai nghe Wreless Apple Airpol (chưa thu hồi).
- Số tiền 440.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 317/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, đã tuyên xử:
Tuyên bố các bị cáo Bùi Quốc Th, Nguyễn Trường G phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường G 01 (một) năm 3 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2020, được trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 14/3/2020 đến ngày 23/3/2020.
Ngoài ra, bản án đã xử lý vật chứng, án phí, tuyên thời gian kháng cáo. Ngày 25/11/2020, bị cáo Nguyễn Trường G và người bào chữa cho bị cáo G là ông Nguyễn Hữu T1 kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để có điều kiện và cơ hội làm lại cuộc đời, trở T công dân có ích cho xã hội.
Tại phiên toà phúc thẩm: Bị cáo G khai nhận hành vi phạm tội, xin giảm nhẹ hình phạt.
Người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đối với bản án sơ thẩm và trình bày: xét về vai trò, Thành có vai trò chính, là người chủ động rủ rê G thực hiện hành vi phạm tội, là người chuẩn bị phương tiện phạm tội, nhưng mức hình phạt lại nhẹ hơn G, như vậy là không tương xứng, ngoài ra do bị cáo còn nhỏ, nhận thức thấp, thiếu sự quan tâm của gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, giảm mức án thấp nhất cho bị cáo G.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng mức hình phạt phù hợp, nên không có căn cứ xem xét kháng cáo của bị cáo và người bào chữa cho bị cáo. Đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: đơn kháng cáo của bị cáo và người bào chữa của bị cáo làm trong hạn luật định, căn cứ Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, được Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự xét xử phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của người bào chữa cho bị cáo xin được hưởng mức án nhẹ hơn mức án Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên. Xét thấy: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong quá trình điều tra. Cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường G phạm tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, người bào chữa cho bị cáo và gia đình bị cáo đã xuất trình chứng cứ chứng minh bị cáo đã tích cực bồi thường cho bị hại và người bị hại có đơn yêu cầu bãi nại với bị cáo, các chứng cứ này là chứng cứ mới tại phiên tòa phúc thẩm, cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ mức án cho bị cáo. Đối chiếu với các quy định áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 1 năm 3 tháng tù là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với quy định tại Điều 54 của Bộ luật hình sự. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như người bào chữa cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người bào chữa của bị cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường G phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 91, Điều 101; Điều 54 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường G 01 (một) năm 3 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2020, được trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 14/3/2020 đến ngày 23/3/2020.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 của Quốc Hội ngày 30/12/2016, khoản 1 Mục I Danh mục án phí, lệ phí Tòa án;
Bị cáo Nguyễn Trường G phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (hai trăm nghìn) đồng, án phí hình sự phúc thẩm 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 128/HSPT ngày 25/03/2021 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 128/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về