Bản án về tội cố ý gây thương tích số 59/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 59/2022/HS-PT NGÀY 09/09/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 09 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 156/2022/HSPT ngày 22 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo Đặng Quốc L. do có kháng cáo của bị cáo Đặng Quốc L. và người bị hại Huỳnh Quốc V. đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2022/HS-ST ngày 15 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố X.:

Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

Đặng Quốc L., sinh năm 1998 tại N., C.; nơi cư trú: Số 117, khu vực H.

1, phường Th., quận N., thành phố C.; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn T., sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị Ánh Đ., sinh năm 1978; bị cáo chưa có vợ con;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/3/2022 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại có kháng cáo:

Anh Huỳnh Quốc V., sinh năm 1994; nơi cư trú: Số 2/14 Tổ 15, khóm H., phường M., thành phố X., tỉnh An Giang (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) (Trong vụ án, còn có bị hại Dương Văn Ph. và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mâu thuẫn từ trước với Đặng Quốc L., khoảng 20 giờ ngày 07 tháng 4 năm 2021 Dương Văn Ph. điều khiển xe mô tô đến nhà của L. ở khu vực H., phường Th., quận N., thành phố C. tìm Quốc L. để nói chuyện. Khi Ph. điều khiển xe mô tô đến khóm H., phường M., thành phố X. thì Huỳnh Quốc V. (bạn Ph.) nhìn thấy nên điều khiển xe mô tô theo Ph. đến nhà L.. Đến nhà L. thì Ph. dừng lại cự cãi, thách thức đánh nhau với L. và hẹn gặp nhau tại khu vực cầu Cái Sắn, phường M., thành phố X. để giải quyết mâu thuẫn.

Khoảng 21 giờ ngày 07 tháng 4 năm 2021, L. gặp Ph. tại cầu Cái Sắn. L. kêu Ph. xuống dạ cầu để nói chuyện. Ph. khai trên đường xuống dạ cầu Ph. lấy con dao dài khoảng 30 cm, lưỡi dao bằng kim loại tại xe đẩy bán dừa. V. đi theo Ph. đến dạ cầu Cái Sắn thấy nhóm của L. khoảng 10 người, sợ có đánh nhau nên V. gọi điện thoại cho Lê Ngọc V1. (bạn V.), V1. rủ Nguyễn Tấn L. đến để can ngăn. Tại dạ cầu Cái Sắn, Ph. tiếp tục cãi nhau rồi dùng dao chém Quốc L.. Quốc L. bị vấp ngã thì Ph. tiếp tục chém nên đưa tay phải lên đỡ làm rớt dao của Ph.. L. khai dùng tay phải nhặt con dao này chém Ph. nhiều nhát trúng vào tay. Lúc này, V. đứng cạnh Ph. cũng bị L. chém nhiều nhát trúng vào vai, lưng, mông và chân. Sau đó, nhóm của Quốc L. xông vào nên Ph., V1. và Tấn L. bỏ chạy. V. khai bị Quốc L. và nhóm thanh niên đi cùng dùng dao chém gây thương tích ở vai, lưng, tay, chân. Sau khi nhóm của Quốc L. bỏ đi thì V1., Tấn L. quay lại đưa V. đến Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang cấp cứu, điều trị đến ngày 02 tháng 5 năm 2022 ra viện.

Căn cứ bản kết luận giám định Ph. y về thương tích số 57/22/TgT ngày 14/02/2022 của Trung tâm Ph. y tỉnh An Giang đối với Dương Văn Ph., sinh năm 1996 xác định như sau: Dấu hiệu chính qua giám định: Sẹo mặt sau ngoài 1/3 dưới cẳng tay trái, kích thước (11 x 0.4)cm, hình vòng cung, bờ sắc gọn; Sẹo mổ đầu trên, kích thước (07 x 0.4)cm; Sẹo mổ đầu dưới, kích thước (05 x 0.5)cm; Sẹo mổ mặt ngoài cổ tay trái, kích thước (1.2 x 0.3)cm; Sẹo dẫn lưu mặt sau 1/3 giữa cẳng tay trái, kích thước (01 x 0.2)cm; Gãy đầu dưới xương quay trái; Đứt gân duỗi cổ tay quay dài – ngắn, duỗi ngón cái dài – ngắn, duỗi các ngón; Đứt động mạch quay; Đứt nhánh nông thần kinh quay; Đã phẫu thuật kết hợp xương, khâu nối gân duỗi, khâu bao thần kinh quay; Ảnh hưởng vận động cổ tay ít, vận động ngón cái ít, vận động các ngón còn lại bình thường.

Kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 33% (ba mươi ba phần trăm) thương tích do vật sắc gây nên (bút lục 62 - 64).

Căn cứ bản kết luận giám định Ph. y về thương tích số 279/21/TgT ngày 16/6/2021 của Trung tâm Ph. y tỉnh An Giang đối với Huỳnh Quốc V., sinh năm 1994 xác định như sau: Dấu hiệu chính qua giám định: Sẹo vai trái, kích thước 4.7 x 0.8 cm, sắc gọn: 03%; Sẹo hông lưng trái, kích thước 2.5 x 0.6 cm: 01%; Sẹo thắt lưng trái, kích thước 2.5 x 0.6 cm: 01%; Sẹo mông phải, kích thước 8.5 x 0.5 cm: 03%; Sẹo mặt sau từ cổ tay đến mặt lưng bàn tay phải phía ngón V (trùng với vết mổ), kích thước 15 x 0.4 cm, sắc gọn, màu hồng, lồi. Đứt gân duỗi ngón II, III, IV, V. Đứt gân duỗi cổ tay trụ phải: 11%; Sẹo mặt sau 1/3 dưới cánh tay trái, kích thước 7.2 x 0.5 cm, sắc gọn, hồng, lòi. Gãy mỏm trên lồi cầu ngoài cánh tay trái: 21%; Sẹo mặt trước ngoài 1/3 trên cẳng chân phải, kích thước 15 x 1.5 cm, hình vòng cung, sậm, lồi. Đứt gân cơ chày trước, duỗi chung các ngón ngón cái phải: 06%; Sẹo mặt ngoài vòng ra sau 1/3 giữa cẳng chân phải, kích thước 12 x 1.5 cm. Gãy hở xương mác phải: 08%; Sẹo mặt sau 1/3 giữa cẳng chân phải đến mắt cá ngoài bàn chân phải, kích thước 22 x 0.5cm: 03%; Sẹo nằm ngang từ mắt cá ngoài vòng ra sau đến mắt cá trong bàn chân phải, kích thước 11.5 x 01 cm. Gãy mắt cá ngoài phải. Đứt gân gót phải. Đứt gân gấp các ngón, bó mạch thần kinh chày sau, gân mác dài, mác ngắn: 24%. Kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 58% (năm mươi tám phần trăm) thương tích do vật sắc gây nên (Bút lục số 41 -44).

Ngày 10 tháng 3 năm 2022 Đặng Quốc L. đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố X. đầu thú về hành vi gây thương tích cho Huỳnh Quốc V. và Dương Văn Ph.p.

Tại Cơ quan điều tra, Đặng Quốc L. khai nhận đã thực hiện hành vi dùng dao chém Ph. và V. gây thương tích như nêu trên. L. đã ném bỏ con dao trên đường đến bệnh viện. L. đã tác động gia đình đến xin lỗi, bồi thường cho V. và Ph..

Tại Cáo trạng số 40/CT-VKS ngày 24/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố X. truy tố bị cáo Đặng Quốc L. về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 4 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2022/HS-ST ngày 15 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố X. đã áp dụng điểm đ khoản 4 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt Đặng Quốc L. 08 (tám) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày 10/3/2022. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 590 Bộ luật dân sự; Buộc bị cáo Đặng Quốc L. có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Huỳnh Quốc V. số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 25/7/2022 bị cáo Đặng Quốc L. làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và ngày 27/7/2022 người bị hại Huỳnh Quốc V. cũng có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đặng Quốc L..

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, Bị cáo Đặng Quốc L. vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo trình bày: Sau phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho anh Huỳnh Quốc V. số tiền 8.000.000 đồng và anh V. đã đồng ý nhận, không yêu cầu bồi thường thêm; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo đã ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại Huỳnh Quốc V. có đơn xin vắng mặt phiên tòa và trong đơn trình bày ý kiến: Vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo L.. Sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình của bị cáo đã bồi thường cho anh số tiền 8.000.000 đồng. Nhận thấy gia đình bị cáo cũng khó khăn, anh V. thống nhất nhận số tiền 8.000.000 đồng và không yêu cầu bị cáo L. phải bồi thường thêm khoản tiền nào khác.

Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố nhà nước tại phiên tòa phát biểu quan điểm về vụ án và đề xuất với Hội đồng xét xử:

- Về tính hợp Ph. của đơn kháng cáo: Bị cáo Đặng Quốc L. và người bị hại Huỳnh Quốc V. kháng cáo trong hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo để xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

- Về hành vi phạm tội của bị cáo: Án sơ thẩm đánh giá đúng tính chất vụ án, xét xử bị cáo Đặng Quốc L. về tội “Cố ý gây thương tích” và tuyên phạt mức án 08 năm tù là đúng quy định của pháp luật. Giai đoạn phúc thẩm, bị cáo Đặng Quốc L. kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; bị hại Huỳnh Quốc V. kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo L. và bị cáo xuất trình chứng cứ đã bồi thường số tiền 8.000.000 đồng cho bị hại Huỳnh Quốc V., V. không yêu cầu bồi thường thêm. Xét toàn diện vụ án nhận thấy: Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại bị cáo đã thực hiện xong đối với 02 bị hại và được bị hại V. kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị hại Dương Văn Ph. đã rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự giai đoạn sơ thẩm. Đây là các tình tiết mới phát sinh giai đoạn phúc thẩm. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Quốc L. và người bị hại Huỳnh Quốc V., có thể giảm cho bị cáo từ 06 tháng đến 01 năm tù cũng đủ tác dụng giáo dục răn đe và phòng chống tội phạm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị cáo Đặng Quốc L., người bị hại Huỳnh Quốc V. kháng cáo trong hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận để xét xử phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm hoàn toàn phù hợp với các vết thương trên cơ thể của những người bị hại, phù hợp với quyết định truy tố của cáo trạng cũng như hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với các Bản kết luận giám định Ph. y về thương tích số 279/21/TgT ngày 16/6/2021 và số 57/22/TgT ngày 14/02/2022 của Trung tâm Ph. y tỉnh An Giang cùng vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có đầy đủ căn cứ xác định: Khoảng 21 giờ ngày 07 tháng 4 năm 2021, do mâu thuẫn, gây gỗ đánh nhau giữa Ph. và L. dẫn đến L. đã có hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho Huỳnh Quốc V. với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 58% và gây thương tích Dương Văn Ph. với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 33%. Căn cứ quy định của pháp luật, hành vi của bị cáo Đặng Quốc L. đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh này theo điểm đ khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Đối với việc Huỳnh Quốc V. khai ngoài Đặng Quốc L. chém V. gây thương tích còn có Đặng Thanh P. và những người không rõ họ tên đi với Quốc L. chém V. gây thương tích nhưng Đặng Thanh P. không thừa nhận việc này. Ngoài lời khai của V. không còn chứng cứ nào khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố X. đã ra Quyết định tách vụ án hình sự để tiếp tục điều tra giải quyết theo quy định của pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Đặng Quốc L.:

Bị cáo đứng trước tòa là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức để phân biệt đúng, sai, việc nào nên làm và không nên làm. Mặc dù người bị hại có phần lỗi đã cố tình gây sự, đánh bị cáo trước. Tuy nhiên, bị cáo vẫn có thể bình tĩnh chọn cách xử sự khác phù hợp hơn nhưng bị cáo đã không kìm chế được bản thân dẫn đến hai bên xô xát và bị cáo đã sử dụng dao gây thương tích cho các bị hại. Hậu quả từ hành vi phạm tội của bị cáo không những trực tiếp xâm hại sức khỏe người bị hại mà còn làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, tuyên phạt Đặng Quốc L. 08 năm tù là thỏa đáng; mức án trên là cần thiết để giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt. Lẽ ra phải giữ nguyên án sơ thẩm, tuy nhiên có xem xét: Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị cáo đã vận động gia đình tự nguyện thỏa thuận và bồi thường xong cho bị hại Huỳnh Quốc V.. Như vậy, bị cáo đã thực hiện xong trách nhiệm bồi thường cho cả hai người bị hại, thể hiện thiện chí khắc phục hậu quả; được bị hại Huỳnh Quốc V. có đơn kháng cáo và đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt, còn bị hại Dương Văn Ph. đã rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự ở giai đoạn sơ thẩm. Đây là những tình tiết mới phát sinh trong giai đoạn xét xử phúc thẩm nên Hội đồng xét xử có cân nhắc giảm cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội thực sự ăn năn hối cải như đề xuất của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay.

[4] Về phần trách nhiệm dân sự, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình điều tra bị hại Huỳnh Quốc V. đã nhận 35.000.000 đồng và có đơn yêu cầu bồi thường thêm 20.000.000 đồng, tại phiên toà sơ thẩm bị cáo cũng đồng ý bồi thường số tiền này. Tuy nhiên, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị cáo đã vận động gia đình bồi thường cho anh V. số tiền 8.000.000 đồng và anh V. cũng đồng ý nhận 8.000.000 đồng này, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm bất cứ khoản tiền nào. Xét thấy việc người bị hại không yêu cầu bồi thường xuất phát từ sự tự nguyện không trái pháp luật nên được Hội đồng xét xử ghi nhận mà không buộc bị cáo bồi thường.

[5] Về án phí:

[5.1] Án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đặng Quốc L. phải chịu 400.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5.2] Án phí phúc thẩm: Bị cáo và người bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Quốc L. và người bị hại Huỳnh Quốc V. về việc xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đặng Quốc L.. Sửa bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt.

Áp dụng điểm đ khoản 4 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Đặng Quốc L. 07 (bảy) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích. Thời hạn tù được tính từ ngày 10/3/2022.

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

- Bị cáo Đặng Quốc L. phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 400.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, tổng cộng là 600.000 đồng (Sáu trăm ngàn đồng)

- Bị cáo Đặng Quốc L., người bị hại Huỳnh Quốc V. không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 59/2022/HS-PT

Số hiệu:59/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;