Bản án về tội cố ý gây thương tích số 58/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 58/2022/HS-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19 tháng 5 năm 2022, tại hội trường xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2022/TLST-HS ngày 20-4-2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2022/QĐXXST-HS ngày 09-5-2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Thị Minh C, sinh ngày 10-6-1971 tại Ninh Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khu phố 7, phường Tấn T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 6/12; Họ tên cha: Phạm Thừa Đ (chết); Họ tên mẹ: Lê Thị X (chết); Có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 2003.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Nguyễn Kim Quỳnh T, sinh năm: 1988. (có mặt) Trú tại: Khu phố 3, phường Tấn T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Luật sư Trần Đăng K – Chi nhánh Văn phòng Luật sư Thanh T, Đoàn luật sư tỉnh Ninh Thuận. (có mặt)

Người làm chứng:

1. Bà Phạm Thị N, sinh năm: 1973. (có mặt) Trú tại: Khu phố 7, phường Tấn T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

2. Bà Phạm Thị N E, sinh năm: 1975. (có mặt) Trú tại: Khu phố 2, phường Mỹ H, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

3. Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm: 1991. (có mặt)

4. Anh Hồ Quốc K, sinh năm: 1992. (có mặt)

Cùng trú tại: Thôn Long B, xã An H, huyện Ninh P, tỉnh Ninh Thuận.

5. Anh Bùi Văn T, sinh năm: 1976. (vắng mặt) Trú tại: Khu phố 5, phường Đạo L, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 50 phút ngày 07-7-2021, tại khu vực chợ Nông sản Tấn T, thuộc khu phố 7, phường Tấn T, thành phố P, Phạm Thị Minh C, Phạm Thị N, Phạm Thị N E nhìn thấy anh Nguyễn Xuân H (sinh năm: 1991) và anh Hồ Quốc K (sinh năm:

1992, cùng trú: thôn Long B, xã An H, huyện Ninh P) là thợ sắt được Ban quản lý chợ nông sản Tấn T thuê hàn gắn thanh chắn cổng chợ ở khu vực lối đi chung thì C, N, Nhi E không đồng ý, yêu cầu gặp Ban quản lý chợ để nói chuyện (Giữa Ch, N và Nhi E với T đã có xích mích trước đây). Lúc này, chị Nguyễn Kim Quỳnh T (sinh năm: 1988, trú tại: Khu phố 3, phường Tấn T, là đại diện Ban quản lý chợ Tấn T) đi đến để giải quyết vụ việc thì xảy ra cãi nhau và xô sát với N, chị T dùng tay đánh trúng mũi N gây thương tích, N dùng tay đánh lại chị T, Nhi E đứng gần đó thấy vậy cũng lao vào dùng tay đánh chị T. Khi mọi người đang can ngăn thì bất ngờ C chạy đến khu vực gần cổng chợ nhặt 01 thanh kim loại dẹp bề ngang hình chữ U dài 67 cm rồi lao vào dùng thanh kim loại đánh 01 cái trúng vào đầu chị T gây thương tích. Sau khi xảy ra sự việc, Cơ quan điều tra đã triệu tập những người có liên quan đến làm việc. Phạm Thị Minh C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Hành vi nêu trên của Phạm Thị Minh C đã được camera ghi hình tại khu vực chợ nông sản Tấn Tài ghi lại được.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 120/TgT ngày 16-8-2021 của Trung tâm giám định y khoa – pháp y tỉnh Ninh Thuận, kết luận Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của Nguyễn Kim Quỳnh T là 01%, vết thương thể hiện như sau:

“Vết thương ngang đỉnh đầu sẹo liền tốt phẳng di động kích thước (0,5 x0,1)cm; Vùng cổ hết sung bầm, không còn dấu tích, cúi ngữa cổ bình thường; Vùng vai trái hết sưng nề không phát hiện dấu tích, vận động khớp vai bình thường; Xquang: không thấy tổn thương xương cột sống cổ, xương hộp sọ, xương vai phải và xương vai trái; Đo điện não đồ: Hiện tại chưa phát hiện hình ảnh bất thường tại thời điểm ghi; Cơ chế hình thành vết thương: vết thương do vật tày có cạnh gây nên.” Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 119/TgT ngày 16-8-2021 của Trung tâm giám định y khoa - pháp y tỉnh Ninh Thuận, kết luận Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của Phạm Thị N là 10%, vết thương thể hiện như sau:

“Vết thương chéo sống mũi xuống tháp mũi sẹo liền tốt phẳng kích thước (2,2 x 0,1) cm, còn đau khi thăm khám, sống mũi thẳng, hít thở bình thường, còn nhận biết mùi; Vùng đầu không còn dấu tích; Vùng vai hai bên cân đối, không còn dấu hiệu bầm tím sưng nề; Xquang: gãy xương chính mũi đã can lành; Cơ chế hình thành vết thương: vết thương do vật tày gây nên”.

Cáo trạng số 51/CT-VKSPR ngày 18-4-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm truy tố bị cáo Phạm Thị Minh C về “Tội cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên việc truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị Minh C từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Luật sư Trần Đăng K tranh luận: Đồng ý về tội danh và mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị, đề nghị truy tố bị cáo C tình tiết “Có tính chất côn đồ” do bị cáo C không có mâu thuẫn với bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử tách phần bồi thường dân sự giữa chị Nguyễn Kim Quỳnh T và chị Phạm Thị N để giải quyết bằng vụ án khác.

Bị cáo nói lời sau cùng: “Bị cáo đã biết lỗi của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ khác đã được thu thập tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Do có mâu thuẫn từ trước nên khoảng 07 giờ 50 phút ngày 07-7-2021, tại khu vực chợ nông sản Tấn T, thuộc khu phố 7, phường Tấn T, thành phố P, Phạm Thị Minh C dùng thanh kim loại (là hung khí nguy hiểm) đánh chị Nguyễn Kim Quỳnh T gây thương tích, với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%. Vì vậy Cáo trạng số 51/CT-VKSPR ngày 18-4-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm truy tố bị cáo Phạm Thị Minh C về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần xử lý trách nhiệm hình sự đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã khắc phục hậu quả là bồi thường cho bị hại số tiền 5.000.000 đồng, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình và ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Do có mâu thuẫn về việc tranh chấp đất đai, bị hại xảy ra xô xát với em ruột của bị cáo và bị cáo gây thương tích cho bị hại. Bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng. Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo đối với bị cáo.

Đối với tranh luận của Luật sư về việc áp dụng “Tính chất côn đồ” đối với bị cáo là không phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

[8.1] Về vật chứng vụ án: Đối với 01 thanh kim loại dẹp bề ngang hình chữ U dài 67 cm là công cụ Phạm Thị Minh C sử dụng để phạm tội nên Cơ quan điều tra đề nghị tịch thu, tiêu huỷ là có căn cứ.

Đối với 01 đĩa DVD chứa đoạn video ghi lại sự việc diễn ra vào ngày 07-7- 2021 tại khu vực chợ Nông sản Tấn T cần được lưu vào hồ sơ vụ án.

Đối với chị Nguyễn Kim Quỳnh T là người đã thực hiện hành vi dùng tay gây thương tích cho chị Phạm Thị N, với tỷ lệ tổn thương cơ thể 10% là chưa đủ yếu tố cấu thành “Tội cố ý gây thương tích” nên Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định của pháp luật.

Đối với chị Phạm Thị N, chị Phạm Thị Nhi E, quá trình điều tra xác định không có đồng phạm với Phạm Thị Minh C nên Công an thành phố Phan Rang- Tháp Chàm đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định.

[8.2] Về dân sự: Bị hại chị Nguyễn Kim Quỳnh T yêu cầu bị cáo C bồi thường số tiền 19.846.147 đồng, bị cáo đã bồi thường cho chị T số tiền 5.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo đồng ý tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là 14.846.147 đồng nên Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận này.

Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại của chị Phạm Thị N, yêu cầu chị Nguyễn Kim Quỳnh T bồi thường số tiền 50.000.000 đồng, chị T không đồng ý với yêu cầu trên và đề nghị xử lý theo quy định pháp luật. Hiện chị T đã bồi thường cho chị N số tiền 5.000.000 đồng. Xét thấy, chị N chưa cung cấp tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, căn cứ Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tách phần yêu cầu này ra để giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phạm Thị Minh C.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thị Minh C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị Minh C 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án, ngày 19-5-2022.

Giao bị cáo Phạm Thị Minh C cho Ủy ban nhân dân phường Tấn Tài, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận nơi bị cáo đang cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về dân sự: Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 19.846.147 đồng. Bị cáo đã bồi thường 5.000.000 đồng, bị cáo đồng ý tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là 14.846.147 đồng (Mười bốn triệu, tám trăm bốn mươi sáu ngàn, một trăm bốn mươi bảy đồng).

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy 01 thanh kim loại dẹp, bề ngang hình chữ U dài 67 cm là công cụ Phạm Thị Minh C sử dụng để phạm tội. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19-4-2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang – Tháp Chàm.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, f khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 992.000 đồng (Chín trăm chín mươi hai ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, bị hại, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 58/2022/HS-ST

Số hiệu:58/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;