TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PA, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 42/2023/HS-ST NGÀY 19/12/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 19 tháng 12 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 40/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pa đối với bị cáo:
Nay Q, sinh ngày 21/8/2005 tại huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai; Nơi cư trú: B, xã U, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: làm nông; Trình độ văn hóa (học vấn): 06/12; Dân tộc: Jrai; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ksor P và bà Nay H; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo Nay Q: Bà Ngô Thị V – Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Gia Lai. Có mặt
- Bị hại: Anh Siu D, sinh năm 1990 Địa chỉ: Buôn T, xã C, huyện Krông Pa - Gia Lai. Có mặt
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại anh Siu D: Bà Bùi Thị P – Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Gia Lai. Có mặt
- Người làm chứng:
+ Anh Ksor T, sinh năm 1998 Địa chỉ: Buôn Suối Cẩm, xã C, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt
+ Anh Ksor Sơ O, sinh năm 1997 Địa chỉ: Buôn T, xã C, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt
+ Anh Nay Qu, sinh năm 2000 Địa chỉ: B, xã U, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Có mặt
- Người phiên dịch tiếng Jrai: Og Nay Dăm Tr, sinh năm 1986 Nơi cư trú: Tổ dân phố 7, thị trấn P, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 29/4/2023, Nay Q cùng anh trai Nay Qu và Ksor Sơ O cùng chơi bida và uống bia tại quán bida Khoa Nguyễn thuộc buôn T, xã C. Đến khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, Nay Qu đi về nhà, còn Q và Sơ O ở lại tiếp tục uống bia. Sơ O nhìn thấy Siu D ở trong quán nên rủ nhậu cùng. Trong lúc uống bia, Siu D có hỏi Q là người ở đâu đến, Q nói dối là ở huyện Ia Pa. D biết Q nói dối nên hai người xảy ra cãi nhau, được Sơ O can ngăn và giải hòa. Q, D đồng ý và cùng nhau tiếp tục uống bia. Do vẫn còn bực tức nên Nay Q đi đến nhà anh trai là Nay Qu tại buôn T, xã C lấy một con dao, sau đó nhặt một gậy gỗ ở ven đường, rồi rủ Qu quay lại tìm D để đánh. Qu không đồng ý đánh nhau, khuyên Q không mang theo hung khí mà để Qu đến nói chuyện giải hòa, Q không nghe lời Qu, vẫn cầm theo dao và gậy gỗ đi tìm D để đánh.
Đến khoảng 14 giờ 45 phút cùng ngày, Qu chở Q đến quán bida tìm D để giải hòa. Khi tới trước quán bida, Q đưa dao cho Qu cầm nhưng Qu vứt dao xuống trước cửa quán bida. Q cầm gậy gỗ chạy vào trong quán bida, Qu chạy theo can Q nhưng không kịp (từ vị trí của quán bida đến vị trí D đứng khoảng 8m), khi thấy D đang ngồi nói chuyện với bạn bè, Q cầm gậy gỗ bằng tay phải, chạy vào đứng bên trái, cách D khoảng 01m rồi cầm gậy bằng hai tay, vung gậy lên đánh từ trên xuống dưới từ phải qua trái nhằm vào phần vai bên trái của D. Cùng lúc đó Ksor T gọi tên D nên D quay mặt sang trái thì bị Q đập một phát trúng vào hàm dưới bên trái, khiến D bất tỉnh tại chỗ. Qu chạy vào can ngăn, chở Q về. Siu D được người nhà đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 170/KLTTCT-TTPY ngày 26/5/2023 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Phú Yên, kết luận tổn thương cơ thể của Siu D do thương tích gây ra là 12% (Mười hai phần trăm).
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên.
Tại bản cáo trạng số 35/CT - VKS ngày 01 tháng 9 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo Nay Q về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Sau đây gọi tắt là BLHS).
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu.
Bị hại có quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử (Sau đây gọi tắt là HĐXX) xử phạt bị cáo theo quy định của pháp luật.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị Nay Q phạm vào tội “Cố ý gây thương tích”, đồng thời đề nghị HĐXX:
- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các điều 54, 90, 91, 98 và Điều 101 của BLHS: xử phạt bị cáo Nay Q từ 18 tháng tù đến 22 tháng tù.
- Áp dụng khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự: Công nhận sự thoả thuận giữa bị cáo Nay Q và anh Siu D , bị cáo Nay Q bồi thường cho anh Siu D với số tiền là 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng) - Căn cứ Điều 47 của BLHS, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 gậy gỗ và trả cho anh Nay Qu 01 (một) con dao (loại dao rựa quắm). Ngoài ra còn buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm nộp sung quỹ Nhà nước.
Quan điểm của trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Nay Q đồng ý với bản luận tội của đại diện VKSND huyện Krông Pa về tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tuy nhiên trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Nay Q đề nghị xử phạt bị cáo Nay Q từ 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và đề nghị HĐXX không áp dụng tình tiết côn đồ đối với bị cáo Nay Q, đề nghị HĐXX xem xét.
Quan điểm của trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại anh Siu D đồng ý với bản luận tội của đại diện VKSND huyện Krông Pa về tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự, đề nghị HĐXX công nhận sự thoả thuận giữa bị cáo Nay Q với anh Siu D cụ thể: bị cáo Nay Q bồi thường cho anh Siu D số tiền 60.000.000 đồng trước ngày 30/12/2024.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định về hành vi phạm tội của các bị cáo như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Vào khoảng 14 giờ 45 phút ngày 29/4/2023, tại quán bida Khoa Nguyễn ở buôn T, xã C. Do bực tức vì mâu thuẫn với Siu D trước đó, nên bị cáo Nay Q đã dùng một gậy gỗ đánh vào phần vai bên trái nhưng trúng vào hàm dưới bên trái của anh D, khiến anh D bất tỉnh tại chỗ. Hậu quả gây ra thương tích tổn hại sức khỏe cho anh Siu D là 12% (Mười hai phần trăm). Như vậy, hành vi của bị cáo Nay Q chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhạt mà bị cáo đã trực tiếp dùng một gậy gỗ gây thương tích cho anh Siu D rõ ràng là có lỗi và sai trái với đường lối, chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta, nay phải chịu trách nhiệm hình sự và hậu quả pháp lý đã gây ra.
Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung của bản cáo trạng, lời khai của bị hại, người làm chứng, lời luận tội của Kiểm sát viên và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. HĐXX có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Nay Q đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của BLHS. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa truy tố bị cáo về hành vi theo tội danh trên là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.
[3] Về tình tiết định khung hình phạt:
Hành vi của bị cáo Nay Q sử dụng gậy gỗ gây thương tích 12% cho anh Siu D thuộc trường hợp “dùng hung khí nguy hiểm”. Mặt khác, hành vi của bị cáo Nay Q chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt từ việc Siu D nói dối bị cáo mà bị cáo đã dùng gậy gỗ đánh Siu D gây thương tích 12% nên phải áp dụng tình tiết định khung là có tính chất côn đồ. Như vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:
Bị cáo Nay Q là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có đủ nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ra mất trật tự trị an. Nay cần xét đến nhân thân và các tình tiết tăng nặng cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo là điều cần thiết.
Bị cáo Nay Q chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại với số tiền 10.000.000 đồng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của BLHS được áp dụng cho bị cáo.
Ngoài ra, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS được áp dụng cho bị cáo.
Tại thời điểm phạm tội bị cáo là người chưa thành niên, chưa phát triển về mặt tâm sinh lý đầy đủ như người trưởng thành do đó cần căn cứ vào Điều 90, Điều 91, Điều 98 và Điều 101 của Bộ luật hình sự về nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội để quyết định hình phạt chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội sau này Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, lời luận tội của Kiểm sát viên, HĐXX xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 của BLHS, nên có đủ điều kiện để áp dụng Điều 54 BLHS cho bị cáo được hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng vẫn phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo tính giáo dục, cải tạo, trừng trị nói riêng đối với bị cáo, tính răn đe phòng ngừa chung cho xã hội tại địa phương.
Xét lời luận tội của Kiểm sát viên và trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại anh Siu D tại phiên tòa về điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt là có căn cứ và phù hợp pháp luật nên HĐXX chấp nhận.
Xét quan điểm của trợ giúp pháp lý bào chữa cho bị cáo Nay Q đề nghị không áp dụng tình tiết côn đồ đối với bị cáo thì thấy rằng, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong giao tiếp, mặc dù đã được người khác hòa giải tại quán bida và anh trai khuyên can tại nhà, bị cáo có đủ thời gian, không gian để bình tĩnh, suy xét về hành vi của mình nhưng vẫn kiên quyết sử dụng gậy gỗ gây thương tích cho anh Siu D 12%. Hành vi của bị cáo rõ ràng thể hiện sự coi thường pháp luật, sẵn sàng dùng vũ lực để uy hiếp người khác phải khuất phục mình nên cần phải áp dụng tình tiết côn đồ đối với bị cáo. Về đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nay Q từ 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, HĐXX xét thấy chưa phù hợp, chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên cần xử phạt bị cáo Nay Q hình phạt tù là điều cần thiết.
[5] Về trách nhiệm dân sự và vấn đề liên quan khác:
Bị cáo đã gây thương tích cho anh Siu D 12%, quá trình điều tra, bị cáo đã thỏa thuận bồi thường với người bị hại anh Siu D với số tiền là 70.000.000 đồng, bị cáo đã bồi thường cho người bị hại anh Siu D với số tiền là 10.000.000 đồng. Tại phiên toà người bị hại anh Siu D yêu cầu bị cáo phải tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là 60.000.000 đồng và được bị cáo đồng ý. Xét thấy sự thoả thuận này là hoàn toàn thể hiện ý chí tự nguyện giữa bị cáo với người bị hại, đồng thời cũng không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận trong bản án và buộc bị cáo phải thực hiện.
Tại phiên tòa bị hại không yêu cầu gì thêm, giữa bị cáo, bị hại không có bên nào còn tranh chấp, yêu cầu và đề nghị gì khác, nên trách nhiệm dân sự trong vụ án này HĐXX không xem xét giải quyết.
Đối với hành vi anh Nay Qu chở bị cáo Nay Q đến quán bida, tuy nhiên, mục đích anh Nay Qu tìm anh Siu D là để hòa giải giữa các bên, anh Nay Qu đã can ngăn bị cáo Nay Q nhưng bị cáo không nghe mà tự ý bộc phát hành vi phạm tội. Do đó không có cơ sở xem xét trách nhiệm của anh Nay Qu nên HĐXX không xem xét.
[6] Về xử lý vật chứng:
- 01 (một) cây gậy bằng gỗ dài 75cm, hình trụ tròn, đường kính một đầu là 04cm, đường kính đầu còn lại là 03cm. Đây là công cụ phương tiện phạm tội không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 (một) con dao (loại dao rựa quắm) chiều dài 59cm, lưỡi dao bằng kim loại, màu đen dài 25,5cm, bản rộng nhất 04cm, cán dao bằng gỗ dài 33,5cm, đường kính 03cm là của anh Nay Qu, tại phiên toà anh Nay Qu yêu cầu được nhận lại nên trả lại cho anh Nay Qu.
[7] Về án phí: Buộc bị cáo Nay Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nay Q phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
1. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và các Điều 54, 90, 91, 98 và Điều 101 của BLHS:
Xử phạt bị cáo Nay Q 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự, Công nhận sự thoả thuận giữa bị cáo Nay Q và anh Siu D cụ thể như sau: bị cáo Nay Q bồi thường cho anh Siu D với số tiền là 60.000.000 đồng(Sáu mươi triệu đồng) vào ngày 30/12/2024.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Căn cứ Điều 47 của BLHS, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cây gậy bằng gỗ dài 75cm, hình trụ tròn, đường kính một đầu là 4cm, đường kính đầu còn lại là 3cm;
Trả lại cho anh Nay Qu 01 (một) con dao (loại dao rựa quắm) chiều dài 59cm, lưỡi dao bằng kim loại, màu đen dài 25,5cm, bản rộng nhất 4cm, cán dao bằng gỗ dài 33,5cm, đường kính 3cm.
Đặc điểm chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/9/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai.
4. Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Bị cáo Nay Q phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) án phí dân sự trong hình sự để nộp ngân sách Nhà nước.
Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/12/2023) để yêu cầu Toà án Nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.
Bản án 42/2023/HS-ST về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 42/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Krông Pa - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/12/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về