TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 192/2024/HS-PT NGÀY 27/09/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 27/9/2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 222/2024/TLPT-HS ngày 04/9/2024 đối với bị cáo Bùi Minh H1, do có kháng cáo của bị cáo Bùi Minh H1 đối với bản án hình sự sơ thẩm số 31/2024/HS-ST ngày 22/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
- Bị cáo có kháng cáo:
Bùi Minh H1, sinh năm 1980; Giới tính: Nam;
Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố T, thị trấn B, huyện Y, tỉnh Bắc Giang;
Chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố T, thị trấn B, huyện Y, tỉnh Bắc Giang;
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Học vấn: 4/12; Con ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L; có vợ là Sầm Thị N, sinh năm 1984 và có 02 con (lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2011); Gia đình có 4 chị em, bị cáo là con thứ hai.
Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Ngày 13/01/2014, bị Công an huyện Y ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 09/02/2023, có mặt tại phiên toà.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Văn Trường C - Luật sư Văn Phòng L2, thuộc Đoàn Luật sư thành phố H; địa chỉ: 102p3, ngách H, ngõ A T, p. T, quận H, Hà Nội (Vắng mặt do Bị cáo có đơn từ chối mời Luật sư).
Trong vụ án còn có bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 01/10/2022, anh Trần Quang H2 (là người bị khuyết tật nặng) điều khiển xe mô tô đến quán bán nước "H" (của chị Bùi Thị Thu H3) ở tổ dân phố Đ, thị trấn B. Khi đến quán, anh H2 thấy Bùi Minh H1 (là anh trai của chị H3) đang ở quán. Do có mâu thuẫn cãi nhau với H1 từ sáng nên anh H2 điều khiển xe về nhà lấy 01 con dao, loại dao nhọn dài khoảng 40 cm, lưỡi dao chỗ rộng nhất khoảng 5cm quấn trong chiếc áo cũ màu trắng mang ra gài ở giá để hàng phía trước xe mô mô rồi điều khiển xe quay lại quán "Hiền Béo", mục đích để đánh H1. Khi đến nơi, anh H2 đỗ xe bên ngoài, cách lối vào quán khoảng 30m thì gặp chị Lê Thị G ở tổ dân phố Đ, thị trấn B, huyện Y đi bộ đến quán để mua thuốc lá. Chị G hỏi anh H2 đi đâu và rủ sang quán C2 uống nước thì anh H2 trả lời "Tao không đi, tao vào gặp thằng H1 béo nói chuyện xem làm sao sáng nay nó chửi tao". Lúc này chị G nhìn thấy ở giá để hàng phía trước xe mô tô của anh H2 có gài 01 vật được quấn trong chiếc áo cũ màu trắng nhưng không biết đó là gì, sau đó chị G đi vào trong quán, còn anh H2 ở bên ngoài. Khi vào trong quán, chị G thấy H1 đang ngồi uống nước ở bàn cùng với anh Trần Quang L1, anh Nguyễn Văn V đều ở tổ dân phố Đ, thị trấn B, anh Trần Mạnh C1 ở tổ dân phố H, thị trấn B, còn ông Đỗ Danh Đ ở tổ dân phố Đ, thị trấn B ngồi một mình một bàn ở gần với bàn của H1. Chị G đi đến chỗ H1 nói với H1 là "anh với thằng H2 khoèo làm sao mà nó mang đồ xuống định đánh anh" thì H1 trả lời "Có xích mích gì đâu". Sau khi nghe chị G nói vậy, H1 đứng dậy đi ra phía cửa quán nhìn về phía anh H2 và nói "Mày vào đây nói chuyện xem nào" thì anh H2 đi vào. Vừa đi vào vừa bỏ chiếc áo cũ màu trắng gói con dao, để lộ ra bên trong con dao nhọn. Thấy vậy, H1 quay lại phía cuối quán nước nhặt 01 đoạn gậy gỗ, hình tròn dài khoảng 90 cm, đường kính 04 cm bằng tay phải quay lại chỗ anh H2. Lúc này tay phải anh H2 cầm con dao nhọn đứng đối diện với H1, cách khoảng 03 đến 04 mét (ở giữa anh H2 và H1 là 01 chiếc bàn nhựa uống nước). Lúc này, anh H2 và H1 cãi chửi nhau một lúc thì anh H2 cầm dao giơ về phía trước đi vòng sang bên phải chiếc bàn nhựa (theo hướng đứng của anh H2) để tiến đến vị trí của H1 để đánh. Thấy vậy chị G đang đứng ở gần đó chạy đến dùng hai tay kéo vạt áo phía sau bên dưới của anh H2 để can ngăn làm anh H2 bị hẫng đà nên người nghiêng sang bên phải. Lúc này H1 lao đến phía bên trái cách anh H2 khoảng 02m dùng gậy gỗ vụt 01 phát trúng vào khủy tay trái anh H2 làm gậy gỗ gẫy thành 02 đoạn. Ngay sau đó, H1 bỏ chạy ra ngoài đường, anh H2 cầm dao đuổi theo phía sau H1 nhưng không đuổi được do H1 đã chạy vào nhà dân bên đường phía đối diện quán nước đóng cửa lại. Do không đuổi được H1 nên anh H2 cầm dao gài lại vào giá để hàng phía trước xe mô tô rồi đi về. Sau khi bị đánh, anh H2 đã được đưa đến Phòng khám đa khoa chất lượng cao Bố Hạ chụp X-Quang. Kết quả: Hình ảnh vỡ mỏm khuỷu tay trái, sau đó anh H2 đến Trung tâm y tế huyện Y, Bệnh viện đa khoa tỉnh B điều trị từ ngày 02/10/2022 đến ngày 07/10/2022 thì ra viện về nhà.
Ngay sau khi sự việc xảy ra, hồi 21 giờ 30 phút ngày 01/10/2022, Công an thị trấn B đã đến lập biên bản sự việc và thu giữ tại hiện trường: 02 đoạn gậy gỗ gồm:
01 đoạn có đường kính 04cm, dài 35,8cm, một đầu cắt vát, một đầu gãy nham nhở, 01 đoạn gỗ có đường kính 4cm, dài 58cm, 02 đầu gẫy nham nhở. Ngày 07/10/2022, Công an thị trấn B đã chuyển toàn bộ hồ sơ cùng vật chứng trên đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y.
Ngày 22/10/2022, anh H2 có đơn đề nghị giám định thương tích. Tại giấy chứng nhận thương tích ngày 02/11/2022 của Bệnh viện đa khoa tỉnh B xác định: Tình trạng thương tích lúc vào viện ngày 02/10/2022: Đau, hạn chế vận động khuỷu tay trái, X-Quang: Hình ảnh gãy mỏm khuỷu tay trái, xưng phần mềm vùng khuỷu tay trái.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 1079/22/TgT ngày 29/11/2022 của Trung tâm pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh B kết luận:
1. Dấu hiệu chính qua giám định: Thương tích vết sẹo mổ khuỷu tay trái kích thước trung bình
+ Xquang khuỷu tay trái. Hình ảnh vỡ mỏm khuỷu trái, đã điều trị kết hợp xương, can tốt: 12%.
2. Kết luận: Căn cứ bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 12% (mười hai phần trăm);
3. Kết luận khác: Vật, cơ chế, chiều hướng, lực tác động: Thương tích do vật tày gây nên, không xác định được chiều hướng gây thương tích, lực tác động mạnh (bút lục 29,30).
Tại bản kết luận giám định bổ sung số: 1283/23/KLBSHS-PY ngày 17/3/2023 của Trung tâm pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh B kết luận:
- Tình huống bị can Bùi Minh H1 gây thương tích cho anh Trần Quang H2 theo lời trình bày của Bùi Minh H1 gây được thương tích vỡ mỏm khuỷu tay trái của anh H2.
- Tình huống bị can Bùi Minh H1 gây thương tích cho anh Trần Quang H2 theo lời trình bày của anh H2 gây được thương tích vỡ mỏm khuỷu tay trái của anh H2.
- Tình huống bị can Bùi Minh H1 gây thương tích cho anh Trần Quang H2 theo lời trình bày của chị Lê Thị G không gây được thương tích vỡ mỏm khuỷu tay trái của anh H2.
- Hai đoạn gậy gỗ gửi giám định là vật tày.
Ngày 12/01/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã có Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 25 yêu cầu V1 giám định thời điểm hình thành thương tích của anh Trần Quang H2. Ngày 06/02/2024 V1 có bản kết luận giám định pháp y về thương tích (bổ sung) số 23/24/TgT kết luận "Vỡ mỏm khuỷu xương trụ cẳng tay trái phù hợp với thời điểm xảy ra chấn thương ngày 01/10/2022, hiện còn dụng cụ kết hợp xương tại vị trí vỡ cũ mỏm khuỷu cẳng tay trái".
Ngày 26/02/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y có Công văn số 135 gửi V1 đề nghị giải thích thương tích "Vỡ mỏm khuỷu trái, đã điều trị kết hợp xương, can tốt" và thương tích " vỡ mỏm khuỷu xương trụ cẳng tay trái" của Trần Quang H2 có phải là một không. Ngày 07/3/2024, V1 có công văn số 130 trả lời " Vỡ mỏm khuỷu tay trái, đã kết hợp xương can tốt" được nêu trong kết luận giám định của Trung tâm pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh B và thương tích " Vỡ mỏm khuỷu xương trụ cẳng tay trái" được xác định cụ thể hơn trong kết luận giám định của V1 chính là cùng một thương tích.
Căn cứ kết quả điều tra lại, kết quả thực nghiệm điều tra. Ngày 20/3/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y có quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 243 trưng cầu Trung tâm pháp y bệnh viện đa khoa tỉnh B giám định bổ sung tình huống gây thương tích. Ngày 29/3/2024, Trung tâm pháp y bệnh viện đa khoa tỉnh B có kết luận giám định bổ sung qua hồ sơ số 2190/24/KLBSHS-PY kết luận :Tình huống: Khi Trần Quang H2 cầm dao đuổi theo H1 thì H1 chạy và thấy có đống lõi gỗ bóc, H1 cúi xuống nhặt một thanh lõi gỗ bóc dài khoảng 1m, đường kính 4cm rồi H1 cầm bằng hai tay xoay người lại theo hướng từ trước ra sau, từ phải qua trái và đối diện với H2, cách H2 1,23m, rồi H1 vụt gậy về phía H2 theo chiều ngang từ phải qua trái, từ sau ra trước trúng vào khuỷu tay trái của H2 gây được thương tích gãy mỏm khuỷu xương cẳng tay trái của Trần Quang H2 (theo lời khai của H1); Tình huống: Khi Lê Thị G đối diện Trần Quang H2, tay trái G túm giữ tay phải H2, tay phải túm giữ áo trước ngực H2, kéo H2 về phía G khiến H2 hơi nghiêng người sang phải, tay trái H2 ép sát sườn, hơi cong khuỷu tay trái, sườn trái nghiêng lên, H2 ở vị trí chếch chéo về bên trái so với H1, vị trí H1 và H2 cách nhau 1,2m, H1 cầm gậy gỗ dài khoảng 1m, đường kính khoảng 4cm đánh một phát theo phương từ trên xuống dưới, từ phải qua trái trúng vào khuỷu tay trái của H2 gây được thương tích gãy mỏm khuỷu xương cẳng tay trái của Trần Quang H2.
Căn cứ kết quả điều tra lại, kết quả thực nghiệm, ghi lời khai của Lê Thị G. Ngày 27/3/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y có công văn số 233 gửi Trung tâm pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh B yêu cầu cho biết theo lời trình bày của Lê Thị G, tình huống Bùi Minh H1 dùng gậy đánh Trần Quang H2 nếu trong trường hợp trúng vào khuỷu tay trái của Trần Quang H2 thì có gây nên được thương tích "Vỡ mỏm khuỷu trái" của Trần Quang H2 không. Ngày 28/3/2024, Trung tâm pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh B có Công văn số 18 trả lời với nội dung "Tình huống khi Bùi Minh H1 dùng gậy đánh Trần Quang H2 theo lời trình bày của Lê Thị G nếu trong trường hợp trúng vào khuỷu tay trái của Trần Quang H2 gây được thương tích "Vỡ mỏm khuỷu trái " của Trần Quang H2.
Ngày 09/02/2023, Bùi Minh H1 bị bắt tạm giam, tạm giữ của H1: 01 (một) điện thoại di động, mặt sau màu tím có chữ "Realme", số tiền 186.000 đồng và 01 xe mô tô Honda Wave, màu trắng - xám - đen, biển kiểm soát 29U9 - 0404.
Đối với con dao nhọn anh H2 sử dụng vào tối ngày 01/10/2022, anh H2 trình bày sau khi không đuổi được H1 đã gài dao vào giá để hàng phía trước xe mô tô đi về. Trên đường về đã bị rơi, do trời tối nên không xác định được vị trí, địa điểm rơi dao. Cơ quan điều tra đã ra Thông báo, truy tìm đối với con dao trên nhưng không tìm thấy.
Ngày 01/3/2023, tiến hành cho H1 xác định vật chứng là 02 đoạn gậy gỗ đã thu giữ, H1 xác định đúng là chiếc gậy H1 sử dụng đánh anh H2.
Tại Cơ quan điều tra, ban đầu H1 khai: Khi thấy anh H2 cầm dao đi về phía H1 thì H1 đã chạy về phía cuối quán nước nhặt 01 đoạn gậy gỗ cầm bằng tay phải quay lại đứng đối diện, cách anh H2 khoảng 04-05 mét mục đích là để xem anh H2 có dám đánh H1 hay không. Khi H1 thấy anh H2 cầm dao xông đến thì H1 đã dùng gậy gỗ vụt 01 phát trúng vào cánh tay trái của anh H2 làm gậy bị gãy làm hai đoạn rồi H1 bỏ chạy. Anh H2 cầm dao đuổi theo nhưng H1 đã chạy sang nhà ở phía đối diện đường đóng cửa lại nên anh H2 không đuổi được. Lời khai của H1 phù hợp lời khai bị hại và các nhân chứng. Tuy nhiên, sau đó H1 thay đổi lời khai là: Khi anh H2 chạy đến gần chỗ H1, cách khoảng 02m đến 03m thì anh H2 dơ dao lên về phía H1 nên H1 đứng dậy bỏ chạy về phía cuối quán nước nhặt 01 đoạn gậy gỗ (là cốt ván bóc). Anh H2 vẫn cầm dao đuổi theo phía sau, H1 bỏ chạy được khoảng 02m đến 03m (từ chỗ nhặt gậy), H1 quay đầu và xoay người lại, dùng tay phải cầm chiếc gậy vụt 01 phát trúng vào cánh tay trái của anh H2 làm gậy gỗ gẫy thành 02 đoạn. H1 tiếp tục bỏ chạy sang nhà ở đối diện đường đóng cửa lại, thì anh H2 đứng ở bên ngoài cầm dao đe dọa H1 sẽ chém chết H1 xong anh H2 bỏ về.
Căn cứ vào lời khai của bị hại và các nhân chứng có mặt tại hiện trường đều xác định: Khi anh H2 cầm dao vào trong quán thì H1 đã chạy về phía cuối quán nhặt 01 đoạn gậy gỗ cầm bằng tay phải quay lại đứng đối diện với anh H2, sau đó hai bên cãi nhau thì anh H2 đã cầm dao nhọn giơ lên chạy về phía H1 và được chị G kéo áo phía sau ngăn cản lại, anh H2 chưa chém được H1. Ngay lúc đó H1 đã dùng gậy vụt 01 phát trúng vào tay trái của anh H2 rồi bỏ chạy. Do đó, việc H1 thay đổi lời khai là không có căn cứ.
Cơ quan điều tra đã tiến hành làm việc với những người làm chứng có mặt tại hiện trường nơi xảy ra vụ án thì đều xác định vị trí anh Trần Quang H2 và Bùi Minh H1 xô sát đánh nhau là ở phía đầu dẫy ki ốt quán bán nước "H3 béo" và không có sự việc H1 đang ngồi uống nước ở bàn thì anh H2 cầm dao nhọn lao thẳng đến chỗ của H1 để đánh H1 như H1 đã trình bày. Khi H2 cầm dao vào quán thì H1 cầm gậy tiến về phía H2 rồi xảy ra lời qua tiếng lại và dẫn đến sự việc trên. Lời khai của những người làm chứng phù hợp với lời khai của anh Trần Quang H2.
Bị can H1 trình bày anh H2 có đe dọa chém chết H1 hay ốp mìn nhà H1 thì những người làm chứng không biết và chỉ xác định là khi ở trong quán thì anh H2 và H1 có to tiếng, cãi, chửi nhau nhưng cụ thể câu nói như nào thì không nhớ. Do có mẫu thuẫn về nội dung lời khai giữa H1 và những người làm chứng nên Cơ quan điều tra đã nhiều lần yêu cầu các nhân chứng tham gia đối chất với Bùi Minh H1, tuy nhiên người làm chứng đều từ chối tham gia đối chất và vẫn giữ nguyên nội dung đã trình bày với Cơ quan điều tra (bút lục 220-221, 225, 234; 674-685; 697; 704;
706; 707; 708; 710; 711; 712; 713; 714).
Tiến hành đối chất giữa H1 và anh H2, cả hai đều giữ nguyên nội dung đã trình bày (bút lục 184,203).
Tiến hành thực nghiệm điều tra theo lời khai của H1, anh H2 và chị G về các tình huống H1 dùng gậy đập trúng vào khuỷu tay của anh H2. Kết quả đều phù hợp với thương tích khuỷu tay trái của anh H2 (bút lục 632-675).
Đối với hành vi của anh Trần Quang H2 có hành vi cầm dao nhọn đến quán chị H3 để tìm đánh H1. Ngày 05/5/2023, Công an huyện Y đã ra Quyết định xử lý hành chính đối với anh H2.
Đối với các đồ vật, tài sản tạm giữ, quá trình điều tra đã xác định:
- 02 đoạn gậy gỗ thu giữ ở hiện trường là công cụ H1 sử dụng đánh anh H2.
- Số tiền 186.000 đồng (một trăm tám mươi sáu nghìn đồng), 01 (một) điện thoại di động là của H1 không liên quan đến hành vi phạm tội, H1 đề nghị trả lại.
- 01 xe mô tô biển kiểm soát: 29U9 - 0404 mang tên Nguyễn Thu H4, sinh năm 1967 ở số I, dãy G, tập thể Đ, phường N, quận B, thành phố Hà Nội. Bà H4 đã bán cho người không quen biết từ năm 2007. Kết quả tra cứu xe mô tô không có trong cơ sở dữ liệu vật chứng. H1 khai mua xe mô tô năm 2022, sau đó đã bán cho anh Nguyễn Thanh T2, sinh năm 1990 ở Tổ dân phố Đ, thị trấn B, huyện Y. Do H1 không có phương tiện đi lại nên anh T2 cho H1 mượn sử dụng. Anh T3 đề nghị trả lại chiếc xe mô tô trên.
Về trách nhiệm dân sự: Anh H2 yêu cầu H1 bồi thường tổng số tiền 25.000.000 đồng, gồm: 5.700.000 đồng tiền viện phí; 1.000.000 đồng chi phí đi lại và 18.300.000 đồng tổn hại sức khỏe, H1 chưa bồi thường .
Với nội dung trên bản án hình sự sơ thẩm số 31/2024/HSST ngày 22/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang đã xét xử và quyết định:
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, điểm k khoản 1 Điều 52, điểm e khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, Xử phạt: Bị cáo Bùi Minh H1 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 09/02/2023.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi cấp sơ thẩm xét xử xong, ngày 05/8/2024, bị cáo Bùi Minh H1 có đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay bị cáo nộp đơn từ chối mời Luật sư, đồng thời khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình. Bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà bị cáo nêu ra đã kết luận và đề HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Minh H1. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm.
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, điểm k khoản 1 Điều 52, điểm s,e khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, Xử phạt: Bị cáo Bùi Minh H1: 02 (Hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 09/02/2023.
Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Bùi Minh H1 không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Bùi Minh H1 nộp theo đúng các quy định của pháp luật nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp cần được chấp nhận để xem xét.
[2] Xét nội dung đơn xin từ chối mời Luật sư của bị cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm xong bị cáo nộp đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị Luật sư Văn Trường C - Luật sư Văn Phòng L2, thuộc Đoàn Luật sư thành phố H bảo chữa cho bị cáo. Tuy nhiên trước phiên tòa hôm nay bị cáo đã có đơn xin từ chối mời Luật sư, nội dung từ chối không bị ai ép buộc. Tại phiên tòa bị cáo vẫn giữ nguyên như nội dung đơn từ chối mời Luật sư. Do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung đơn xin từ chối Luật sư của bị cáo.
[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 20 giờ ngày 01/10/2022, tại quán nước của chị Bùi Thị Thu H3 ở Tổ dân phố Đ, thị trấn B, huyện Y, anh Trần Quang H2 đã cầm 01 con dao nhọn đi vào trong quán để tìm đánh Bùi Minh H1 do có mâu thuẫn từ trước. Sau khi cãi nhau, anh H2 cầm dao nhọn giơ lên và tiến đến gần vị trí của H1, ngay lúc đó anh H2 được chị G chạy đến can ngăn dùng hai tay kéo vạt áo phía sau bên dưới của anh H2 làm anh H2 bị nghiêng người. Thấy vậy, H1 đã dùng gậy vụt 01 phát trúng vào khuỷu tay trái của anh H2 rồi bỏ chạy. Hậu quả anh H2 bị vỡ mỏm khuỷu trái, tỷ lệ tổn thương 12%.
Mặc dù tỷ lệ thương tích mà bị cáo gây ra cho anh H2 12% nhưng khi thực hiện, bị cáo đã dùng 01 đoạn gậy gỗ dài 93,8 cm, đường kính 04 cm, là loại hung khí nguy hiểm để gây nên thương tích cho anh H2. Vì vậy, bị cáo phải chịu tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự, do đó, việc truy tố, xét xử bị cáo theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đảm bảo có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Bản án sơ thẩm sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi của bị cáo, đánh giá toàn bộ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đã xử phạt bị cáo Bùi Minh H1 02 năm 04 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” là hoàn toàn tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo Bùi Minh H1 thì thấy: Bị cáo Bùi Minh H1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay bị cáo nộp đơn từ chối mời Luật sư, đồng thời khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình. Bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và trình bày, sau khi xét xử sơ thẩm xong bị cáo suy nghĩ lại thấy hành vi phạm tội của mình như bản kết luận điều tra, cáo trạng của Viện kiểm sát và bản án sơ thẩm xử vậy là đúng với hành vi phạm tội của mình, bị cáo rất ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ; bản thân bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo ăn năn, hối cải; bị hại cũng có một phần lỗi, mặt khác bị cáo cũng được bị hại xin giảm nhẹ một phần hình phạt. Do vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình, thể hiện tính khoan hồng của pháp luật. Do vậy cần áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Do đó, có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm đối với bị cáo Bùi Minh H1, giảm cho bị cáo một phần hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm [6] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Bùi Minh H1. Sửa bản án sơ thẩm.
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, điểm k khoản 1 Điều 52, điểm s,e khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, Xử phạt: Bị cáo Bùi Minh H1: 02 (Hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 09/02/2023.
2. Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Bùi Minh H1 không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 192/2024/HS-PT
Số hiệu: | 192/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về