TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 135/2021/HS-ST NGÀY 20/09/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 20 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 90/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2021/QĐXXST-HS ngày 30/6/2021 đối với các bị cáo:
1. Phạm Văn T, sinh năm 1991 tại tỉnh B. Nơi cư trú: Ấp C, xã M, huyện H, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Quốc T và bà Khưu Thị M; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 12/11/2020 cho đến nay; có mặt.
2. Nguyễn Trọng T, sinh ngày 03/5/2001 tại tỉnh T. Nơi cư trú: đường N, phường T, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đức L và bà Trần Thu Á; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 12/11/2020 cho đến nay; có mặt.
- Bị hại: Anh Trần Thanh N, sinh năm 1985. Nơi cư trú: Xã T, huyện T, tỉnh Bình Định; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Trần Trung Đ, sinh năm 1994. Nơi cư trú: Thôn A, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2. Bà Khưu Thị M, sinh năm 1969. Nơi cư trú: Ấp C, xã M, huyện H, tỉnh Bạc Liêu; vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Anh Lê Văn B; vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Văn D; vắng mặt.
3. Anh Thái Việt X; vắng mặt.
4. Anh Danh D; vắng mặt.
5. Anh Danh Si N; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Văn T, anh Trần Trung Đ và anh Trần Thanh N cùng làm công nhân tại Công ty TNHH MTV Thép Đ (thuộc phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương); Nguyễn Trọng T là bạn trai của em họ Phạm Văn T.
Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 11/11/2020, anh Lê Văn B (Quản đốc Công ty Đ) rủ một số người làm chung đến quán nướng “Bình Định”, địa chỉ tại khu phố 3, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương để ăn uống. Tại quán, anh B cùng anh Nguyễn Văn D, anh Thái Việt X, anh Danh D, anh Danh Si N, anh Trần Thanh N; anh Trần Trung Đ, Phạm Văn T cùng một số người tên Hoàng A, P, Tây, M, H, C … ngồi ăn uống chung một dãy bàn.
Khi mỗi người uống được khoảng 02 chai bia thì anh N thấy chai bia của anh Đ vẫn còn nhưng không uống mà để xuống đất, nên giữa anh Đ, anh N và T lời qua tiếng lại với nhau. Sau đó, T gọi điện cho Nguyễn Trọng T (đang ở phòng trọ) nói: “Mày chạy qua khu nhà 46 căn tao gặp chuyện, nhớ xách đồ theo (dao tự chế)”; nghe điện thoại của T xong, T lấy 01 con dao tự chế bằng kim loại, dài khoảng 70cm và điều khiển xe môtô hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ-đen, biển số 59T2-330.86 đi đến quán “Bình Định”.
Sau đó, anh N nói anh Đ phải xin lỗi cả bàn thì anh Đ đồng ý đứng lên xin lỗi; tuy nhiên, anh Đ vẫn bị anh N tiếp tục chửi nên anh Đ quay người qua nói với T đang ngồi gần bên là “Em cay quá”; liền lúc này, anh N nói “Tụi bây là chó hùa!”; khi anh N vừa nói xong, lập tức T đứng lên cầm ly uống bia (bằng thủy tinh T đang uống) đánh 01 cái từ trên xuống trúng vào đầu của anh N làm ly thủy tinh bị vỡ; thấy T đánh anh N, anh Đ ôm T kéo vào trong còn anh N chạy ra đường; cùng lúc này, T vừa đi đến thấy anh N đang chạy bộ; T nghĩ đây chính là người đã đánh nhau với T nên T xuống xe cầm dao chạy đến chém 01 cái trúng vào lưng của anh N; khi T thấy đầu của anh N bị chảy máu, T không chém nữa mà bỏ đi về; còn anh N được những người đi chung đưa đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương cấp cứu.
Sau khi xảy ra vụ việc, anh Trần Thanh H (anh ruột của anh Trần Thanh N) đến Công an phường P tố giác tội phạm; cùng ngày 12/11/2020, anh N có đơn yêu cầu giám định thương tích và khởi tố vụ án hình sự. Sau đó, Công an phường P chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một giải quyết theo thẩm quyền.
Tại Giấy chứng nhận thương tích số 12183/CN ngày 30/11/2020 của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương xác định anh Trần Thanh N có tình trạng thương tích khi nhập viện, như sau:
- 02 vết thương trán đỉnh (P), dài 02cm và 01cm; vết thương trán (P) dài 01cm; vết thương mi dưới mắt (P) dài 2,5cm; vết thương lưng (T) dài 04cm. Các vết thương chưa khâu còn rỉ máu.
- CTSCAN sọ não: Máu tụ ngoài màng cứng thái dương đỉnh (P), xuất huyết dưới nhện.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 597/2020/GĐPY ngày 14/01/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Dương đã kết luận đối với anh Trần Thanh N như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Chấn thương đầu mặt: 02 (hai) vết thương đỉnh trán phải, kích thước 0,7 x 0,1cm và 01 x 0,1cm; vết thương trán phải, kích thước 0,7 x 0,2cm; vết thương mi dưới mắt phải, kích thước 01 x 0,1cm, sẹo lành. Máu tụ ngoài màng cứng thái dương đỉnh phải, xuất huyết dưới nhện, đã phẫu thuật mở hộp sọ lấy máu tụ, vết mổ kích thước 20 x 0,2cm; khuyết sọ thái dương-đỉnh phải kích thước 5,5 x 09 cm, đã lắp lại mảnh vá sọ.
- Vết thương lưng trái, kích thước 5,5 x 0,2cm, sẹo lành.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 36%.
3. Cơ chế hình thành vết thương:
- Chấn thương đầu mặt, máu tụ ngoài màng cứng thái dương đỉnh phải, xuất huyết dưới nhện: 02 (hai) vết thương đỉnh trán phải có chiều nằm ngang, vết thương trán phải có chiều từ trên xuống. Các vết này có hướng từ trước ra sau hơi chếch từ trên xuống, bờ không sắc gọn, khả năng do vật tày có cạnh gây ra.
- Vết thương mi dưới mắt phải: Chiều nằm ngang, hướng từ trước ra sau, bờ sắc gọn, khả năng do vật có cạnh sắc gây.
- Vết thương lưng trái: Chiều nằm ngang hơi chếch xuống từ phải qua trái, hướng từ sau ra trước, bờ sắc gọn, khả năng do vật sắc gây ra.
Tại Công văn số 39/CV ngày 31/3/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Dương xác định tỉ lệ thương tích của từng vết thương của bị hại Trần Thanh N cụ thể như sau:
- Chấn thương đầu mặt: 02 vết thương đỉnh trán phải, kích thước 0,7 x 0,1cm và 01 x 0,1cm; vết thương trán phải, kích thước 0,7 x 0,2cm. Máu tụ ngoài màng cứng thái dương đỉnh phải, xuất huyết dưới nhện, đã phẫu thuật mở hộp sọ lấy máu tụ, vết mổ kích thước 20 x 0,2cm; khuyết sọ thái dương đỉnh phải kích thước 5,5 x 09cm, đã lắp lại mảnh vá sọ. Được xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể là 33%.
- Vết thương mi dưới mắt phải, kích thước 01 x 0,1cm, sẹo lành. Được xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%.
- Vết thương lưng trái, kích thước 5,5 x 0,2cm, sẹo lành. Được xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể là 02%.
Quá trình điều tra, Trần Thanh N yêu cầu Phạm Văn T và Nguyễn Trọng T phải liên đới bồi thường chi phí điều trị thương tích, thu nhập thực tế bị mất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần với tổng số tiền là 120.000.000 đồng. Ngày 30/01/2021, anh Trần Trung Đ đã tự nguyện hỗ trợ chi phí điều trị thương tích cho anh Trần Thanh N số tiền 45.000.000 đồng; ngày 23/4/2021, bà Khưu Thị M (mẹ bị cáo T) bồi thường chi phí điều trị thương tích cho anh Trần Thanh N số tiền 10.000.000 đồng.
Vật chứng thu giữ, gồm: Xe môtô hiệu Yamaha Surius, màu đỏ-đen, biển số 59P2-330.86; 01 dao tự chế bằng kim loại, dài khoảng 70 cm và một số mảnh vỡ của ly thủy tinh.
Tại Bản Cáo trạng số 101/CT-VKS-HS ngày 14/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một đã truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Nguyễn Trọng T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Tại phần tranh luận, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Nguyễn Trọng T về tội “Cố ý gây thương tích” điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm 06 tháng tù; căn cứ điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù; về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo T bồi thường cho anh N số tiền 70.000.000 đồng; về vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại phần tranh luận, các bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt và mức hình phạt đã đề nghị. Bị hại không có ý kiến tranh luận.
Bị cáo Phạm Văn T nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi sai trái của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình. Bị cáo Nguyễn Trọng T nói lời sau cùng: Bị cáo thấy được việc làm của mình là sai trái, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo T khai nhận: Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 11/11/2020, tại quán nướng “Bình Định”, do tức giận vì bị anh N chửi nên T đã cầm ly bằng thủy tinh mà mình đang uống bia đánh 01 cái trúng vào đầu của anh N; bị cáo T khai nhận: Do được T gọi đến giải quyết mâu thuẫn và nghĩ anh N là người đánh T, nên T đã dùng dao tự chế chém 01 cái vào lưng của anh N. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong quá trình điều tra, giấy chứng nhận thương tích, bản kết luận giám định pháp y về thương tích, vật chứng của vụ án và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở xác định: Bị cáo T là người đã dùng ly bằng thủy tinh (loại dùng để uống bia) đánh 01 cái vào đầu anh N gây thương tích được xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể là 34% và bị cáo T là người đã dùng dao tự chế chém 01 cái vào lưng anh N gây thương tích được xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể là 2%; bị cáo T vì tức giận anh N chửi mình nên đã đánh vào đầu anh N, bị cáo T không có ý định tước đoạt tính mạng của anh N. Như vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Nguyễn Trọng T về tội “Cố ý gây thương tích” điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; các bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
[3] Hành vi của bị cáo T dùng ly thủy tinh đánh vào vùng đầu của người bị hại; bị cáo Tiến dùng dao tự chế chém vào vùng lưng của bị hại là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người bị hại được pháp luật bảo vệ. Về nhận thức, các bị cáo hoàn toàn biết hành vi gây thương tích cho người khác là trái pháp luật nhưng vì ý thức chấp hành pháp luật kém, xem thường sức khỏe của người khác nên các bị cáo đã cố tình thực hiện. Hành vi phạm tội của các bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện, cần phải có mức hình phạt tương xứng, cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội cũng như nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội không có sự phân công chặt chẽ, thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn; tuy nhiên, bị cáo T là người rủ bị cáo T phạm tội, nên bị cáo T có vai trò chính trong vụ án. Đối với anh Đ, không nói bị cáo T đánh anh N, khi T đánh anh N là người đã can ngăn, nên anh Đ không phải là đồng phạm trong vụ án.
[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Không.
[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo T: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường một phần chi phí điều trị thương tích cho bị hại; bị cáo có ông nội được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì và bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Tiến: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[7] Đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo T đã thực hiện là rất nghiêm trọng. Bị cáo T, mặc dù chỉ gây thương tích cho bị hại 2%, tuy nhiên bị cáo T đã dùng dao tự chế (là hung khí nguy hiểm) chém bị hại và bị cáo chém bị hại khi giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn (thuộc trường hợp có tính chất côn đồ), nên bị cáo T phải chịu trách nhiệm hình sự với 02 tình tiết định khung (điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự). Do đó, đề nghị của Kiểm sát viên về mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp, đúng pháp luật được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại yêu cầu bị cáo T phải bồi thường thêm số tiền 70.000.000 đồng, bị cáo T đồng ý bồi thường toàn bộ theo yêu cầu của bị hại, nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Cần buộc bị cáo T phải bồi thường số tiền 70.000.000 đồng cho bị hại.
[9] Về vật chứng của vụ án: Bị cáo Nguyễn Trọng T đã sử dụng xe môtô hiệu Yamaha Surius, màu đỏ - đen, biển số 59P2-330.86 làm phương tiện đi phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước. Đối với 01 dao tự chế bằng kim loại, dài khoảng 70cm và một số mảnh vỡ của ly thủy tinh không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[10] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T và Nguyễn Trọng T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Về trách nhiệm hình sự:
Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/11/2020.
Căn cứ điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/11/2020.
3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 584 và Điều 590 của Bộ luật dân sự 2015;
Buộc bị cáo Phạm Văn T phải bồi thường cho anh Trần Thanh N số tiền 70.000.000 đồng (bảy mươi triệu đồng).
Kể từ ngày án có hiệu lực thi hành và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi bằng mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc xe môtô hai bánh đã qua sử dụng hiệu Yamaha Surius, màu đỏ - đen, biển số 59P2-330.86 số máy: E3X9E-706224, số khung: RLCUE3210KY321118 của bị cáo Nguyễn Trọng T.
Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 con dao tự chế bằng kim loại, dài khoảng 70cm và 01 bịch nylon bên trong có một số mảnh vỡ của ly thủy tinh loại uống bia (đã được niêm phong).
(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 098.21 ngày 19/4/2021 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương).
5. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Phạm Văn T và Nguyễn Trọng T mỗi người phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Buộc bị cáo Phạm Văn T phải nộp 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Các bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 135/2021/HS-ST
Số hiệu: | 135/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về