TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 121/2021/HS-PT NGÀY 25/11/2021 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Ngày 25/11/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 87/2021/TLPT-HS ngày 25/10/2021 đối với bị cáo Nguyễn Thị T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2021/HS-ST ngày 23/09/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị T (tên gọi khác: T ), sinh năm 1975 tại Quảng Bình; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú : Thôn X, xã X, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam; Tạm trú: Số nhà XX đường A, tổ XX, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng; N ghề nghiệp: Cắt tóc; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Viết H (chết) và bà Nguyễn Thị N (chết); Gia đình có 6 anh em, bị cáo là con thứ 5; C ó chồng là Phạm Bá T (đã ly hôn), có 03 con (con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2007).
Tiền án: Không. Tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/4/2021; Tạm giam ngày 22/4/2021, đến ngày 11/6/2021 được tại ngoại. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng tháng 8 năm 2020, Nguyễn Thị T thuê nhà của ông Ngô Tấn C ở thôn x, xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng và mở tiệm cắt tóc A tại đây. Quá trình hoạt động, T thuê Hoàng Thị Q và Xa Thị L vào làm nhân viên của tiệm. Đến tháng 3 năm 2021, do ít khách đến cắt tóc nên T đã để cho Q và L bán dâm cho khách tại tiệm cắt tóc của mình để t lợi bất chính. Mỗi lần Q, L bán dâm cho khách với giá từ 150.000 đồng đến 200.000 đồng/ khách thì sẽ nộp lại cho T 50.000 đồng/ khách.
Vào khoảng 19 giờ 50 phút ngày 13/4/2021, Cơ quan Công an huyện Hòa Vang kiểm tra hành chính quán cắt tóc A và phát hiện Xa Thị L và một người đà n ông khai tên là Nguyễn Công D đang thực hiện việc mua bán dâm với giá 150.000 đồng, Hoàng Thị Q và một người đàn ông khai tên Lê Văn H đang thực hiện việc mua bán dâm với giá 200.000 đồng ở hai căn phòng khác nhau của quán cắt tóc A nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2021/HS-ST ngày 23/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang , thành phố Đà Nẵng đã quyết định: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thị T 05 (năm) năm tù và được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam là 60 ngày (02 tháng), bị cáo Nguyễn Thị T còn phải chấp hành là 04 ( bốn ) năm 10 (mười ) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, phần án phí và quyền kháng cáo bản án.
Ngày 27/9/2021, bị cáo Nguyễn Thị T có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt vì bị cáo là lao động chính, hiện đang nuôi 2 con còn nhỏ, đã ly hôn chồng.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Về thủ tục: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T theo đúng thủ tục và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.
Về nội dung: Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2021/HS-ST ngày 23/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Chứa mại dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 327 là có cơ sở, tuy nhiên về các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự thì cấp sơ thẩm áp dụng chưa đầy đủ, bị cáo đã tự khai báo ra những lần phạm tội trước đó và đã tự nguyện nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 7.000.000đ nhưng cấp sơ thẩm chưa xem xét, do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy đinh tại điểm r khoản 1 Điều 51 BLHS; điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 BLTTHS chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Bị cáo giữ nguyên kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có điều kiện lao động, chăm sóc con cái.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thị T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, do đó HĐXX có đủ cơ sở để khẳng định: Vào 19 giờ 50 phút ngày 13 tháng 4 năm 2021, Nguyễn Thị T đã có hành vi sử dụng quán cắt tóc “A” do mình làm chủ cho các nhân viên là Xa Thị L và Hoàng Thị Q thực hiện việc mua bán dâm với các đối tượng là Nguyễn Công D và Lê Văn H để thu lợi bất chính thì bị Cơ quan Công an huyện Hòa Vang bắt quả tang. Xa Thị L mua bán dâm với Nguyễn Công D, Hoàng Thị Q mua bán dâm với Lê Văn H ở hai căn phòng khác nhau của quán cắt tóc “ A” và hai đôi mua bán dâm này độc lập với nhau. Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2021/HS-ST ngày 23/9/2021 Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “ Chứa mại dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 327 là có căn cứ, đúng pháp luật .
[2] Xét nội dung đơn kháng cá o của bị cáo, thì thấy: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, tần phong mỹ tục, xâm phạm đến chuẩn mực đạo đức, tác động tiêu cực đến nếp sống văn minh, gây thiệt hại về vật chất, tinh thần cho nhiều gia đình, là một tệ nạn xã hội gây ra nhiều tác hại cho mọi mặt của đời sống, làm lây truyền nhiều bệnh xã hội nguy hiểm. Bị cáo nhận thức được và biết rõ việc chứa mại dâm là vi phạm pháp luật. Song do trục lợi, bị cáo đã thực hiện tội phạm.
Vì vậy, đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm, cần phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để bị cáo được học tập, cải tạo trở thành người công dân tốt. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo đượ c hưởng theo quy định pháp luật nhưng chưa đầy đủ vì trong quá trình điều tra bị cáo đã tự nguyện nộp lại số tiền t lợi bất chính 7.000.000đ từ những lần thực hiện phạm tội trước ngày bị bắt quả tang , như vậy bị cáo đã tự mình khai ra những lần phạm tội trước đó, do đó bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định t ại điểm r khoản 1 Điều 51 BLHS. HĐXX căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 BLTTHS và Điều 54 BLHS chấp nhận kháng cáo của bị cáo; Sửa Bản án sơ thẩm, giảm cho bị cáo một phần hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa là phù hợp.
[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm .
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T; Sửa Bản án sơ thẩm.
2.Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 327; điểm r, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T (T) 04 (năm) 06 (sáu) tháng tù về tội “Chứa mại dâm” nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam là 60 ngày (02 tháng), bị cáo Nguyễn Thị T còn phải chấp hành là 04 (bốn) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt giam thi hành án.
3.Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Thị T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4.Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội chứa mại dâm số 121/2021/HS-PT
Số hiệu: | 121/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về