TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 50/2021/HSPT NGÀY 05/02/2021 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Ngày 05 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2021/TLPT-HS ngày 06/01/2021 đối với bị cáo Ngô Thị H về tội “Chứa mại dâm ”, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Ngô Thị H (tên gọi khác: H1), sinh năm 1960, tại tỉnh Đắk Lắk.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn P1, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Chỗ ở hiện nay: Thôn 5, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Nghề nghiệp: Làm nông. Trình độ học vấn: Không biết chữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Ngô Văn S, sinh năm 1936 và bà Đặng Thị M, sinh năm 1936 (đều đã chết); Bị cáo có chồng Thạch Kim Q, sinh năm 1958 (đã chết), có 05 con, con lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 1995; Tiền án, Tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/01/2020 đến ngày 11/01/2020. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Võ Ngọc C - Văn phòng luật sư T, Chi nhánh tại P thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk. Địa chỉ: 45 đường L, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 40 phút, ngày 02/01/2020, Hoàng Văn D, sinh năm 1992, trú tại thôn 6, xã E, huyện E, đến nhà nghỉ T ở Thôn 5, xã E, huyện K, gặp Ngô Thị H là người quản lý nhà nghỉ hỏi mua dâm. H thỏa thuận với D mỗi lượt mua dâm 300.000 đồng, sau khi thỏa thuận xong, H dùng điện thoại có số thuê bao 0837667981 gọi đến số điện thoại 0382579002 cho Nguyễn Thị D1, sinh năm 1984, cư trú tại buôn K, xã E, huyện K nói đến nhà nghỉ T bán dâm. H thu của D 300.000 đồng và nói vào phòng số 04 đợi. Một lúc sau Nguyễn Thị D1 đến, H nói D1 vào phòng số 04 bán dâm. Đến 13 giờ 10 phút cùng ngày, khi D1 đang thực hiện hành vi bán dâm cho D thì bị Công an huyện Krông Pắc phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng liên quan.
Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ: Tại phòng số 04 nhà nghỉ T 02 bao cao su chưa qua sử dụng; Thu giữ 300.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu EPIC màu trắng - nâu, bàn phím số, có sim số thuê bao 0837667981, số Imei1: 355685025290049, số Imei2: 355685025290056 của bị cáo Ngô Thị H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen, bàn phím số, có sim số thuê bao 0382579002 số Imei1: 354195100141357, số Imei2: 354195100641356, của Nguyễn Thị D1.
Quá trình điều tra xác định: Căn phòng số 04 nơi Ngô Thị H dùng chứa mại dâm là tài sản thuộc sở hữu của ông Ngô Tiến T1, sinh năm 1963, cư trú tại Thôn 5, xã E, huyện K giao cho H trông coi và dọn dẹp nhà nghỉ. Việc bị cáo H chứa mại dâm thì ông T1 không biết. Đối với số tiền 300.000 đồng thu giữ trên người H lúc bắt quả tang là tiền H nhận của Hoàng Văn D, số tiền này H được hưởng 100.000 đồng tiền thuê phòng, còn lại 200.000 đồng sẽ đưa cho D1 sau khi bán dâm xong.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 50/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Ngô Thị H phạm tội “Chứa mại dâm”.
[1] Về hình phạt:
- Áp dụng khoản 1 Điều 327, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Ngô Thị H 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 02/01/2020 đến ngày 11/01/2020.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật.
* Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 27/11/2020, bị cáo Ngô Thị H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Ngô Thị H vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Ngô Thị H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được nêu trên.
Quá trình tranh luận tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát luận tội và tranh luận: Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Ngô Thị H về tội “Chứa mại dâm ” theo quy định tại khoản 1 Điều 327 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, nên đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với bị cáo Ngô Thị H. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, được hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo Ngô Thị H tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, với động cơ ham lợi bất chính nên khoảng 13 giờ, ngày 02/01/2020, tại nhà nghỉ T do mình trông coi tại Thôn 5, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, Ngô Thị H đã gọi điện thoại cho Nguyễn Thị D1 đến bán dâm cho Hoàng Văn D với số tiền 300.000 đồng. Trong đó, bị cáo H được hưởng 100.000 đồng tiền thuê phòng, còn lại 200.000 đồng sẽ đưa cho D1 sau khi bán dâm xong.
[2] Đối với kháng cáo của bị cáo Ngô Thị H, xét thấy: Mức hình phạt 01 (một) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Trong quá trình xét xử Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét và áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, mà cần giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Ngô Thị H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm nhưng bị cáo Ngô Thị H là người cao tuổi nên được miễn án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] . Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ngô Thị H - Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 50/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.
- Áp dụng khoản 1 Điều 327, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Ngô Thị H 01 (một) năm tù về tội “Chứa mại dâm Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 02/01/2020 đến ngày 11/01/2020.
[2]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Ngô Thị H là người cao tuổi nên được miễn án phí hình sự phúc thẩm.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, không bị kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 50/2021/HSPT ngày 05/02/2021 về tội chứa mại dâm
Số hiệu: | 50/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/02/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về