TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 104/2023/HS-PT NGÀY 29/09/2023 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Trong ngày 29 tháng 9 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sơn Tịnh, tỉnh Q xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 117/2023/TLPT-HS ngày 07 tháng 9 năm 2023 do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 99/2023/HS-ST ngày 04/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Q.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Thị X, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1984, tại tỉnh HT; nơi thường trú: Tổ 5, phường CL, thành phố Q, tỉnh Q; nơi tạm trú: Tổ 5, phường N, thành phố Q, tỉnh Q; nghề nghiệp: Kinh doanh nhà trọ; trình độ học vấn:
10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ph và bà Nguyễn Thị D (Đã chết); chồng: Đã ly hôn; có 03 con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2022 đến ngày 09/3/2022 thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Ngày 04/8/2023, bị cáo bị bắt tạm giam ngay tại phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo đang giam, có mặt tại phiên tòa.
2. Huỳnh Văn T, sinh ngày 08 tháng 6 năm 2003, tại tỉnh Q; nơi cư trú: Thôn A, xã HD, huyện NH, tỉnh Q; nghề nghiệp: Quản lý nhà trọ; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn L và bà Tạ Thị Th; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2022 đến ngày 09/03/2022 thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Ngày 04/8/2023, bị cáo bị bắt tạm giam ngay tại phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo đang giam, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa theo yêu cầu của bị cáo Nguyễn Thị X: Ông Vy Quí V - Luật sư Công ty Luật TNHH ML, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Q. Địa chỉ: Tầng 3, lô N1.1-03 khu đô thị AP, phường N, thành phố Q, tỉnh Q; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nhà trọ GA ở địa chỉ số 44/9 đường TTX, tổ 05 phường N, thành phố Q, tỉnh Q do anh Nguyễn Ph (Sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn ĐA, xã NĐ, huyện TN, tỉnh Q) đứng tên đăng ký hộ kinh doanh theo Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 34A801xxxx Phòng Tài chính - Kế hoạch thành phố Q cấp ngày 28/9/2016. Năm 2017, Nguyễn Ph nợ tiền của người đàn ông quen biết ngoài xã hội (Không xác định nhân thân, lai lịch) nên đã thế chấp nhà trọ GA cho người này để cấn trừ tiền nợ. Tháng 02/2021, Nguyễn Thị X thuê lại nhà trọ GA từ người phụ nữ tên H (Không xác định nhân thân, lai lịch) quen biết ngoài xã hội trong thời hạn 02 năm để kinh doanh dịch vụ nghỉ ngơi. Trong quá trình kinh doanh, bị cáo X sử dụng nhà trọ GA làm địa điểm chứa mại dâm nhằm mục đích thu lợi bất chính.
Tháng 11/2021, bị cáo X thuê Huỳnh Văn T làm quản lý trông coi, dọn phòng, thu tiền phòng của khách đến nghỉ ngơi, trường hợp có khách đến mua dâm thì tổ chức cho gái bán dâm cho khách; mức lương 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng)/tháng và hỗ trợ 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng) tiền ăn/ngày. X quy định với T giá mua bán dâm tại nhà trọ GA giao động 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) đến 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng)/lượt; mỗi lượt gái bán dâm cho khách số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) thì X hưởng 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng), gái bán dâm cho khách được số tiền 250.000 đồng (Hai trăm năm mươi nghìn đồng) thì X hưởng 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng), gái bán dâm cho khách được 300.000 đồng thì X hưởng 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng). Số tiền bị cáo X hưởng trên, trong đó tiền thuê phòng là 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng), còn lại là tiền gái bán dâm trích lại cho X. Nguyễn Thị X giao cho bị cáo T thu tiền của gái bán dâm rồi đưa lại cho X; gái bán dâm tự tìm đến nhà trọ GA để bán dâm cho khách.
Khoảng 21 giờ ngày 25/01/2022, Phạm Thị Y (Sinh năm 1999; nơi cư trú:
Thôn LT, xã BT, huyện B, tỉnh Q) điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 76C1-125.08 đến nhà trọ GA để bán dâm. Tại đây, Y gặp bị cáo T. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày có một người đàn ông (Không xác định nhân thân, lai lịch) đến nhà trọ GA mua dâm. Lúc này bị cáo T thỏa thuận giá mua bán dâm với người đàn ông số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng)/lượt. Người đàn ông chọn Phạm Thị Y vào bán dâm, T nói với Y “Vào làm đi”. Sau đó T dẫn Phạm Thị Y và người đàn ông vào phòng số 103 để Y bán dâm. Sau khi Phạm Thị Y bán dâm xong, người đàn ông đưa cho bị cáo T 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), T đưa cho Y 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng), giữ lại 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng); Sau khi nhận tiền, Phạm Thị Y tiếp tục ngồi tại nhà trọ GA đợi khách đến để bán dâm. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, có một người đàn ông (Không xác định nhân thân, lai lịch) đến nhà trọ GA mua dâm. T dẫn người đàn ông và Phạm Thị Y vào phòng 104 để Y bán dâm. Khi vào phòng, người đàn ông hỏi Phạm Thị Y giá mua bán dâm thế nào, Y nói 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng)/lượt. Sau khi Y bán dâm xong, người đàn ông đưa cho Y 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Phạm Thị Y đưa cho Tân 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng), giữ lại 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng).
Khoảng 00 giờ ngày 26/01/2022, Huỳnh Văn T gọi điện thoại cho bị cáo X biết về việc T chuẩn bị đi sinh nhật bạn và nói X đến trông coi nhà trọ GA, X đồng ý. Lúc này, X đang nhậu cùng với người tên Tr (Chưa xác định nhân thân, lai lịch), không về trông coi nhà trọ được nên X nhờ Phạm Thị Nh (Sinh năm 2006; nơi cư trú: Thôn LX 1, xã BT, huyện B, tỉnh Q) là người thuê trọ gần nhà trọ của X đến trông coi nhà trọ GA giúp X, Nh đồng ý. Khoảng 02 giờ cùng ngày, X chở gái đến quán Karaoke MT phục vụ cho khách hát nên nói Tr đến nhà trọ GA đợi bị cáo X về, Tr đồng ý. Khi Tr đến nhà trọ GA thì lúc này Trần Đình Tr (Sinh năm 1997; nơi cư trú: Thôn AT, xã NT, huyện TN, tỉnh Q) điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 76E1- xxxxx chở Đào Trung T (Sinh năm 1996; nơi cư trú: Thôn MK, xã TM, huyện ST, tỉnh Q) cũng đến nhà trọ GA để mua dâm. Tại đây, Đào Trung T hỏi Tr “còn gái không?”, Tr trả lời “còn”. Sau đó, T hỏi giá mua dâm bao nhiêu, Tr nói 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng)/lượt, hai người mua dâm thì 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng/lượt). Lúc này, Phạm Thị Th (Sinh năm 2001; nơi cư trú: Thôn KL, xã BD, huyện B, tỉnh Q) đang có mặt tại nhà trọ GA để bán dâm. Đối tượng Tr nói với Th vào phòng 104 bán dâm cho Tr, một gái bán dâm khác không xác định nhân thân, lai lịch) vào phòng 103 bán dâm cho T. Tuy nhiên T không đồng ý và yêu cầu Tr đổi người khác. Cùng lúc này, X đến thì Tr nói với X có 02 khách đến mua dâm đã vào phòng và đưa tiền, có một khách yêu cầu đổi người. X điều khiển xe mô tô biểm kiểm soát 43K1-563.06 đến khu vực tiệm cắt tóc TT ở đường Lê Hữu Trác, phường NL, thành phố Q để tìm gái bán dâm thì nhìn thấy Đinh Thị L (Sinh năm 1994; nơi cư trú: Thôn GR, xã ST, huyện SH, tỉnh Q) đang đi bộ trên đường. X hỏi L có đi bán dâm không, L đồng ý. Sau đó bị cáo X chở L về nhà trọ GA. Khi đến nơi, đối tượng Tr nói L giá bán dâm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng)/lượt rồi dẫn L vào phòng 103 và nói “đây là khách của em, em làm phòng số 103”. Khi vào phòng, L hỏi T “anh đi dù hay đi khách?”, T trả lời “đi dù”, L nói lại “đi dù thì giá 300.000 đồng”.
Thời điểm này, Võ Văn Đ (Sinh năm 2001; nơi cư trú: Thôn LH 03, xã NT, huyện TN, tỉnh Q) và Lê Phước T (Sinh năm 2000; nơi cư trú: Thôn LH 04, xã NT, huyện TN, tỉnh Q) đi xe taxi đến nhà trọ GA mua dâm. Tại đây, T không có nhu cầu mua dâm nên ngồi ngoài đợi, còn Đ vào gặp bị cáo X, X hỏi: “Em đi dù hay đi khách?”, Đ trả lời: “Đi dù”. X chỉ và nói Phạm Văn Đ và Phạm Thị Y vào phòng số 101 để Y bán dâm cho Đ. Khoảng 02 giờ 40 phút ngày 26/01/2022, tại phòng số 104 Phạm Thị Th cởi quần áo ra để chuẩn bị quan hệ tình dục với Trần Đình Tr; tại phòng 103 Đào Trung T và Đinh Thị L chuẩn bị cởi quần áo ra để quan hệ tình dục; tại phòng số 101 Võ Văn Đ và Phạm Thị Y đang quan hệ tình dục; còn X và Nguyễn Đức H (Sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn ĐA Đ, xã HT, huyện NH, tỉnh Q, là người yêu của bị cáo X) thỏa thuận cầm cố điện thoại cho Nguyễn Công M tại nhà trọ GA, M không đồng ý. Sau khi anh M đi thì cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Q kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang 03 cặp nam nữ mua bán dâm cùng Nguyễn Thị X tại nhà trọ GA và tạm giữ các vật chứng.
* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 99/2023/HS-ST ngày 04/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Q:
Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thị X, Huỳnh Văn T phạm tội “Chứa mại dâm”.
1. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 327; các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị X 05 (Năm) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/8/2023, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2022 đến ngày 09/3/2022.
2. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 327; các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn T 05 (Năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/8/2023, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2022 đến ngày 09/3/2022.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 08/8/2023, các bị cáo Nguyễn Thị X, Huỳnh Văn T đều có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xem xét tình tiết không chứa mại dâm vào ngày 25/01/2022.
* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q về việc giải quyết vụ án:
Căn cứ lời khai ban đầu tại cơ quan điều tra của các bị cáo Nguyễn Thị X, Huỳnh Văn T và anh Đào Trung Tuấn, chị Phạm Thị Y, có căn cứ khẳng định: Vào tối 25/01/2022, bị cáo Huỳnh Văn T đã tổ chức cho Phạm Thị Y bán dâm 02 lần cho 02 khách mua dâm tại nhà nghỉ GA. Bị cáo T cho rằng bị cáo khai có tổ chức mua bán dâm vào ngày 25/01/2022 là do bị ép cung, mớm cung, đánh đập nhưng bị cáo không có chứng cứ chứng minh. Đối với bị cáo Nguyễn Thị X, tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận có chứa 03 cặp mua bán dâm vào ngày 26/01/2022 tại nhà nghỉ GA.
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Thị X, Huỳnh Văn T về tội “Chứa mại dâm” quy định tại khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Thị X, Huỳnh Văn T kháng cáo nhưng không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ gì mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt mà bản án cấp sơ thẩm đã tuyên.
* Luận cứ bào chữa của luật sư Vy Quí Viên cho bị cáo Nguyễn Thị X:
Tòa án cấp sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đang nuôi con nhỏ cho bị cáo Nguyễn Thị X. Đồng thời, việc bị cáo phạm tội là do hoàn cảnh đặc biệt, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Mặt khác, việc bị cáo T phạm tội vào ngày 25/01/2022 không liên quan đến bị cáo X nên bị cáo X không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của bị cáo T. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị X mức thấp nhất của khoản 1 Điều 327 Bộ luật Hình sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị X, Huỳnh Văn T được làm trong thời hạn quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của các bị cáo:
[2.1] Về hành vi phạm tội: Mặc dù hai bị cáo Nguyễn Thị X, Huỳnh Văn T đều kháng cáo không thực hiện hành vi “Chứa mại dâm” tại nhà trọ GA vào ngày 25/01/2022. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy:
Lời khai của bị cáo Huỳnh Văn T tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung vào các ngày 26/01/2022, 27/01/2022, 28/01/2022, 23/02/2022, 10/3/2022, 20/3/2022, 05/4/2022 (BL 197-221) phù hợp với lời khai của bị cáo Nguyễn Thị X (BL 124-157), của người bán dâm Phạm Thị Y (Tại BL 352-355, BL 584-587), phù hợp bản ảnh nhận dạng và biên bản nhận dạng Phạm Thị Y (BL 195-196), phù hợp với số tiền tạm giữ lúc bắt quả tang trên người chị Ỷ và của bị cáo T (BL 190).
Tại bản ảnh và biên bản nhận dạng ngày 27/01/2022, bị cáo T nhận dạng đúng Phạm Thị Y (Tr) và trình bày: “Trong thời gian từ 19 giờ 30 phút đến 23 giờ ngày 25/01/2022, tôi đã tổ chức cho chị Tr (Ỷ) bán dâm 02 lần cho 02 khách tại nhà nghỉ GA. Tôi đã nhận của chị Trúc tổng số tiền 300.000 đồng. Lý do tôi nhận dạng ra chị Tr (Y) vì chị Tr (Y) thường xuyên bán dâm tại nhà nghỉ GA nên tôi biết mặt chị Tr” (BL195-196). Bị cáo X cũng thống nhất khai vào ngày 25/01/2022 và 26/01/2022, bị cáo thực hiện hành vi “Chứa mại dâm” tại nhà nghỉ GA; “chị Tr (Phạm Thị Y) là người thường xuyên bán dâm tại nhà trọ GA nên tôi biết chị Tr” (BL132-140). Tại các bút lục 348-363, Phạm Thị Y khai nhận: “chị X và anh T là người tổ chức cho tôi bán dâm tại nhà nghỉ GA”; “vào ngày 25/01/2022, anh T là người tổ chức cho tôi bán dâm tại nhà nghỉ GA 02 lần, lần thứ nhất là khoảng 22 giờ tại phòng 103, lần thứ hai tại khoảng 23 giờ tại phòng 104”; “Vào khoảng 02 giờ ngày 26/01/2022, chị X tổ chức cho tôi bán dâm tại phòng số 101 của nhà nghỉ GA, khi đang bán dâm thì bị công an ập vào bắt quả tang”.
Việc Phạm Thị Y thay đổi lời khai chỉ thừa nhận bán dâm lần đầu tại nhà nghỉ GA ngày 26/01/2022 tại “Đơn trình bày ngày 05/9/2022” là do Nguyễn Đức H và bị cáo X xúi giục Phạm Thị Y ký tên vào đơn mà Y không đọc nội dung và dặn Y nếu có ai hỏi thì nói chỉ bán dâm một lần đầu tiên vào ngày 26/01/2022, ngoài ra không bán dâm lần nào nữa (BL 584-586). Phạm Thị Y khẳng định lời khai của mình tại cơ quan điều tra là đúng sự thật và xác nhận nội dung “Đơn trình bày ngày 05/9/2022” là không đúng sự thật. Ngoài ra, tại biên bản đối chất ngày 22/9/2022 giữa Phạm Thị Y với và Huỳnh Văn T, Y vẫn khẳng định T là người tổ chức cho Y bán dâm cho khách trọ 02 lần tại nhà nghỉ GA vào ngày 25/01/2022 (BL 593-594).
Lời khai ban đầu của người mua dâm Đào Trung T khẳng định ngày 26/01/2022, khi T đến nhà nghỉ GA thì không gặp T, mà gặp một người phụ nữ tên Tr dẫn T vào phòng 103 để mua dâm, phù hợp với lời khai ban đầu tại cơ quan điều tra của Huỳnh Văn T, Nguyễn Thị X và Phạm Thị Y là vào lúc khoảng 00 giờ ngày 26/01/2022, T đi dự sinh nhật bạn chứ không ở nhà trọ GA. Do đó, việc bị cáo T, X thay đổi lời khai chưa chứa mại dâm ngày 25/01/2022, mà chỉ thừa nhận vào ngày 26/01/2022 thực hiện hành vi “Chứa mại dâm” tại nhà trọ GA là lần đầu tiên là không có căn cứ.
Lời khai ban đầu tại Cơ quan điều tra của các bị cáo phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, tuy nhiên sau đó, bị cáo T cho rằng bị ép cung, mớm cung, đánh đập và thay đổi lời khai nhưng không có chứng cứ chứng minh nên lời khai ban đầu tại Cơ quan điều tra của bị cáo T là có cơ sở.
Do đó, có căn cứ xác định vào ngày 25/01/2022, Huỳnh Văn T tổ chức cho Phạm Thị Y bán dâm 02 lần cho 02 khách tại nhà nghỉ GA. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị X đã khai nhận hành vi phạm tội chứa 03 cặp mua bán dâm ngày 26/01/2022 giống như bản án sơ thẩm, lời khai của bị cáo là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận: Bị cáo X là người thuê nhà trọ GA rồi sử dụng địa điểm để chứa mại dâm, thuê bị cáo T từ tháng 11/2021 và giao nhiệm làm quản lý, trông coi, dọn phòng, thu tiền phòng của khách đến nghỉ ngơi. X chỉ đạo Tân trường hợp có khách đến mua dâm thì tổ chức cho gái bán dâm cho khách, thu tiền của gái bán dâm rồi giao lại cho X, trường hợp không có sẵn gái bán dâm tại nhà nghỉ thì Tân đi tìm gái bán dâm cho khách mua dâm. Ngày 25/01/2022, Tân tổ chức cho Phạm Thị Y (Tr) bán dâm 02 lần cho 02 khách mua dâm tại nhà nghỉ GA, cụ thể: vào khoảng 22 giờ tại phòng 103 và khoảng 23 giờ tại phòng 104, tổng thu lợi số tiền 300.000 đồng. Đến khoảng 00 giờ ngày 26/01/2022, bị cáo T đi dự sinh nhật bạn thì X tiếp quản nhà trọ GA, chứa 03 cặp mua bán dâm là Phạm Thị Th và Trần Đình Tr tại phòng số 104, Đinh Thị L và Đào Trung T tại phòng số 103, Phạm Thị Y và Võ Văn Đ tại phòng số 101.
Do đó, bản án hình sự sơ thẩm số 99/2023/HS-ST ngày 04/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Q đã xử phạt các bị cáo Nguyễn Thị X, Huỳnh Văn T về tội “Chứa mại dâm” với tình tiết định khung tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật và không oan.
[2.2] Xét nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Nguyễn Thị X, Huỳnh Văn T thì thấy:
Đây là vụ án có tính chất đồng phạm, do đó khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét vai trò, đánh giá mức độ, tính chất của hành vi nguy hiểm của các bị cáo đối với xã hội, đồng thời xem xét, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo X có cha được hưởng chính sách thương binh, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; bị cáo T có bác ruột được hưởng chính sách thương binh nên 02 bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là phù hợp và có căn cứ. Xét thấy, mức án Hội đồng xét xử sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo Huỳnh Văn T 05 năm tù và tuyên phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị X 05 năm 03 tháng tù là đã tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.
Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thị X cung cấp Đơn xác nhận đề ngày 27/9/2023 của anh Nguyễn Hữu Đ (Là con trai của bị cáo) về việc bị cáo một mình phải nuôi 02 con đang học. Xét thấy, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên Hội đồng xét xử chấp nhận phần kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sớm trở về hòa nhập với cộng đồng, xã hội, nuôi dạy các con, đồng thời cũng thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.
Đối với bị cáo Huỳnh Văn T, tại cấp phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Văn T, giữ nguyên mức hình phạt bản án sơ thẩm đã tuyên.
[4] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp nhận một phần.
[5] Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị X về việc áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và cho bị cáo X hưởng mức hình phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật Hình sự không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên bị cáo Nguyễn Thị X không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Kháng cáo của bị cáo Huỳnh Văn T không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị X. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 99/2023/HS-ST ngày 04/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Q về phần hình phạt.
- Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị X 05 (Năm) năm tù về tội “Chứa mại dâm”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/8/2023, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2022 đến ngày 09/3/2022.
2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Văn T. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 99/2023/HS-ST ngày 04/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Q.
- Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn T 05 (Năm) năm tù về tội “Chứa mại dâm”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/8/2023, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2022 đến ngày 09/3/2022.
3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị X không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Huỳnh Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội chứa mại dâm số 104/2023/HS-PT
Số hiệu: | 104/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về