TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 85/2022/HSST NGÀY 24/06/2022 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 24 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 85/2022/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2022/QĐXXST- HS ngày 25 tháng 5 năm 2022; Thông báo thay đổi thời gian xét xử vụ án hình sự đối với bị cáo:
1. Nguyễn Mạnh V, sinh năm 1981, ĐKHKTT và chỗ ở: Số 4/24/116 CH, P. D, Q. L, TP. H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Mạnh Q – sinh năm 1946 – Đã chết và bà Phạm Thị T, sinh năm 1950; vợ: chị Trần Thị Minh Trang, sinh năm 1983, có 02 con lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2017; Tiền sự: không;
Tiền án:
+ Bản án hình sự sơ thẩm số 174/HSST ngày 28/8/2001 của Tòa án nhân dân Quận L, TP. H xử phạt 48 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Chưa thi hành xong hình phạt bổ sung 4.990.000 đồng).
Nhân thân:
+ Bản án hình sự sơ thẩm số 51/HSST ngày 13/3/2000 của Tòa án nhân dân Quận 12, TP. Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Không thể hiện giá trị tài sản chiếm đoạt).
+ Bản án hình sự sơ thẩm số 61/HSST ngày 17/7/2020 của Tòa án nhân dân TP. H xử phạt Nguyễn Mạnh Vinh 11 năm tù về tội Giết người (Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đang thụ lý xét xử phúc thẩm).
+ Bản án số 75/HSST ngày 18/8/2020 của Tòa án nhân dân quận N- TP. H xử phạt Nguyễn Mạnh Vinh 24 tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc.
+ Bản án số 193/2022/HSPT ngày 31 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xử phạt 07 năm tù về tội “ Giết người”.
Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an TP. H theo Quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.
2. Người đại diện hợp pháp của bị cáo V:
- Bà Phạm Thị T, sinh năm 1950 ( mẹ đẻ bị cáo).
- Chị Trần Thị Minh Tr, sinh năm 1983 ( vợ bị cáo).
Đều trú tại: Số 4/24/116 CH, P. D, Q. L, TP. H. (có mặt) 3. Người bào chữa cho bị cáo V: Ông Trần Trọng Ph – trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Hải Dương. ( có mặt) 4. Người làm chứng:
- Anh Trịnh Hoàng H, sinh năm 1978.
- Ông Đinh Văn B, sinh năm 1962.
(Anh H có đơn xin xử vắng mặt, ông B vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thực hiện Kế hoạch số 207 ngày 01/4/2010 đảm bảo trật tự an toàn giao thông – trật tự công cộng, bảo vệ Đại hội Đảng các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (từ ngày 01/4/2010 đến 30/6/2010) của Công an thành phố Hải Dương, tổ tuần tra kiểm soát giao thông gồm các ông Trịnh Hoàng Hà, Đoàn Văn Mạnh, Nguyễn Ngọc Hiếu thuộc Đội Cảnh sát giao thông- Công an TP. Hải Dương làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên tuyến đường Nguyễn Lương Bằng- TP Hải Dương. Các ông Hà, Mạnh, Hiếu mặc đúng trang phục Cảnh sát giao thông.
Khoảng 11h40 phút ngày 29/5/2010, Nguyễn Mạnh V điều khiển xe môtô hiệu Yamaha Sirius màu đen- bạc biển số 89K9-4418 chở chị Đặng Phạm Chiều X- sinh năm 1990, HKTT Duy Châu, Duy Xuyên, Quảng Nam đi đến khu vực đường Nguyễn Lương Bằng- TP. Hải Dương. Khi thấy chị X không đội mũ bảo hiểm theo quy định, ông Hà điều khiển xe môtô chuyên dùng biển số 34A-0029 đuổi theo xe mô tô của V để xử lý vi phạm. Khi đến đoạn trước cửa nhà số 65A Phạm Ngũ Lão- phường Phạm Ngũ Lão- TP. Hải Dương, ông Hà dùng gậy điều khiển giao thông ra tín hiệu cho V dừng xe lại để kiểm tra và xử lý vi phạm nhưng V không chấp hành mà điều khiển xe môtô đi lên vỉa hè rồi dừng lại. ông Hà đi đến rút chìa khoá xe mô tô của V, yêu cầu V xuất trình giấy tờ để kiểm tra. V lấy đăng ký xe môtô ra cầm ở tay trái còn dùng tay phải rút từ trong người ra 01 khẩu súng ngắn (dạng col xoay) rồi chĩa thẳng vào mặt ông Hà, vừa lên đạn vừa nói “mày lùi ra sau không tao bắn chết”. Thấy V dùng súng đe dọa ông Hà nên ông Đinh Văn Bình- sinh năm 1962 ở số 46 Phạm Ngũ Lão, TP Hải Dương và một số người dân đã bảo ông Hà lùi lại. Lợi dụng lúc ông Hà lùi lại, V bảo chị Xuân đưa chìa khoá xe môtô dự phòng bên trong ba lô. Sau đó, V dùng tay phải điều khiển xe môtô bỏ chạy theo hướng Phạm Ngũ Lão đi Ngã Sáu, TP. Hải Dương còn tay trái vẫn cầm súng chĩa về phía ông Hà nên ông Hà không dám đuổi theo. Lúc này, các ông Mạnh, Hiếu đi đến cùng ông Hà yêu cầu chị X về trụ sở Công an TP. Hải Dương làm việc. Cơ quan điều tra thu giữ 01 chiếc chìa khóa xe mô tô của Nguyễn Mạnh V và 01 biển số xe mô tô 16N7-1753. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Vinh đã bỏ trốn. Không thu giữ được xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đen- bạc biển số 89K9- 4418 và khẩu súng mà V đã sử dụng.
Ngày 29/6/2010, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Hải Dương ra quyết định truy nã số 30 đối với Nguyễn Mạnh V. Trước đó, ngày 23/4/2009 Nguyễn Mạnh V cùng đồng phạm thực hiện hành vi Giết người tại TP. Hải Phòng bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Hải Phòng khởi tố bị can. Ngày 04/6/2009 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Hải Phòng ra Quyết định truy nã đối với Nguyễn Mạnh V về tội “Giết người”. Đến ngày 02/11/2010, Vinh bị bắt theo quyết định truy nã của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Hải Phòng. Ngày 26/01/2011, Viện kiểm sát nhân dân TP. Hải Phòng ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với Nguyễn Mạnh V. Đến ngày 04/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân TP. Hải Phòng ra quyết định đình chỉ thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với V.
Tại bản Kết luận giám định pháp y tâm thần số 395/KLGĐ ngày 06/12/2021 của Viện pháp y tâm thần trung ương – Bộ Y tế (theo Quyết định trưng cầu giám định số 330 ngày 22/12/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Hải Dương) kết luận:
Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 29/5/2010 bị can Nguyễn Mạnh V bị động kinh toàn thể cơn lớn kèm theo có một số biểu hiện rối loạn tâm thần trên người HIV (+). Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số G40.6/B20. Bị can đủ khả năng nhận thức, hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
Tại thời điểm giám định bị can Nguyễn Mạnh V có bệnh động kinh toàn thể cơn lớn đã điều trị ổn định/người HIV (+). Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số G40.6/B20. Bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
Quá trình điều tra, Nguyễn Mạnh V không hợp tác, không khai nhận hành vi phạm tội của mình, không nhận các Quyết định của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân.
Tại bản cáo trạng số 76/CT-VKSTPHD ngày 22/4/2022, VKSND thành phố Hải Dương truy tố Nguyễn Mạnh V về tội ‘‘Chống người thi hành công vụ’’ theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015 (BLHS).
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Mạnh V không khai báo, không trả lời các câu hỏi của Hội đồng xét xử vì bị cáo không nhớ được diễn biến vụ việc.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày : Luật sư đồng ý với cáo trạng truy tố đối với bị cáo. Tuy nhiên, Luật sư vẫn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến tình trạng bệnh tật của bị cáo vì bị cáo là người có nhược điểm về thể chất và tinh thần, bị cáo là người bị nhiễm HIV, có điều kiện hoàn cảnh khó khăn, bố đẻ bị cáo được tặng thưởng huân chương chiến công vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 330 ; điểm q khoản 1 khoản 2 Điều 51 ; điểm h khoản 1 Điều 52 đề nghị xét xử bị cáo với mức hình phạt từ 09 tháng đến 11 tháng tù.
Đại diện hợp pháp của bị cáo là bà Phạm Thị T và Trần Thị Minh Tr (do bà Phạm Thị T đại diện). Bà T đề nghị Hội đồng xét xử giảm một phần hình phạt cho bị cáo V vì các lý do : Vinh bị bệnh tâm thần nên không làm chủ được hành vi của mình nên đã phạm tội; bản thân bị cáo hiện sức khỏe tâm thần và thể chất đều không ổn định, bị cáo có hai con còn nhỏ, hoản cảnh, điều kiện gia đình khó khăn; bố bị cáo (đã chết) có tham gia quân ngũ và được tặng thưởng Huân chương chiến công.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:
- Về tội danh: tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh V phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
- Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13; khoản 1 Điều 330; điểm q khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh V từ 10 tháng đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án .
- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
- Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 chìa khóa xe mô tô và 01 biển số xe mô tô 16 N7 – 1753.
- Về án phí: Do bị cáo là người hạn chế khả năng nhận thức điều khiển hành vi, có xác nhận của UBND phường Dư Hàng Kênh là người khuyết tật. Căn cứ điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo không phải nộp án phí HSST theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng đó. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng đó thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Nguyễn Mạnh V im lặng, không khai báo, không trả lời các câu hỏi của Hội đồng xét xử, tuy nhiên căn cứ vào nội dung các biên bản nhận dạng; biên bản ghi lời khai của ông Trịnh Hoàng Hà, ông Đinh Văn Bình và bà Vũ Thị Thu; biên bản ghi lời khai của chị Đặng Phạm Chiều phù hợp với nhau, phù hợp với các tình tiết, diễn biến của vụ án cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 29/5/2010, tại trước cửa nhà số 65A Phạm Ngũ Lão, P. Phạm Ngũ Lão, TP. Hải Dương, Nguyễn Mạnh V điều khiển xe môtô hiệu Yamaha Sirius, biển số 89K9-4418, sau xe chở chị Đặng Phạm Chiều X không đội mũ bảo hiểm, thì bị ông Trịnh Hoàng Hà- Cán bộ Đội Cảnh sát giao thông- Công an TP. Hải Dương đang làm nhiệm vụ, ra tín hiệu dừng xe để kiểm tra, xử lý vi phạm. V đã dùng 01 khẩu súng ngắn (dạng col xoay) đe dọa, cản trở ông Hà thực hiện công vụ rồi điều khiển xe môtô bỏ chạy.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ và thông qua đó xâm phạm đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý.
Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức, hạn chế khả năng điều khiển hành vi nên đã phạm vào tội “ Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009; Căn cứ khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13. Hành vi nêu trên của Nguyễn Mạnh V đã phạm tội: Chống người thi hành công vụ, quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3].Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và xử lý đối với bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (tái phạm) quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ:
quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không khai nhận về hành vi phạm tội của mình nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; theo Kết luận Giám định pháp y tâm thần số 395/KLGĐ ngày 06/12/2021 của Viện pháp y tâm thần trung ương – Bộ Y tế thì Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 29/5/2010 bị cáo là người bị bệnh; theo Giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân phường Dư Hàng Kênh và Quyết định số 4618/QĐ- UBND ngày 04/10/2016 cảu Ủy ban nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng thì bị cáo là người khuyết tật đặc biệt nặng (dạng khuyết tật: thần kinh, tâm thần), đồng thời bị cáo còn bị mắc HIV và các loại bệnh khác vẫn đang được chữa trị; bị cáo có bố là ông Nguyễn Mạnh Quang đã từng tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam, được nhà nước tặng thưởng 03 Huân chương chiến công. Do đó, bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm q khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.
Bị cáo có nhân thân xấu nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 01 chiếc chìa khóa xe mô tô của Nguyễn Mạnh V và 01 biển số xe mô tô 16N7-1753 do chị Đặng Phạm Chiều X giao nộp nay không còn giá trị sử dụng nên cho tịch thu tiêu hủy.
[5] Về án phí: Bị cáo là người hạn chế khả năng nhận thức điều khiển hành vi, có xác nhận của UBND phường Dư Hàng Kênh là người khuyết tật nên được miễn án phí theo điểm đ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.
[6] Về vấn đề khác: Đối với chị Đặng Phạm Chiều X không bàn bạc, không cùng Nguyễn Mạnh Vinh thực hiện hành vi phạm tội nên không có căn cứ xử lý.
Do không thu giữ được khẩu súng (dạng col xoay) mà Nguyễn Mạnh V sử dụng đe dọa ông Trịnh Hoàng Hà nên không có căn cứ để xử lý đối với Vinh về hành vi Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13; khoản 1 Điều 330; điểm q khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Luật phí và lệ phí số 97/2015; điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.
1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh V phạm tội “ Chống người thi hành công vụ”.
2. Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh V 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chìa khóa xe mô tô của Nguyễn Mạnh V và 01 biển số xe mô tô 16N7-1753.
(Hiện trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Hải Dương và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hải Dương).
4.Về án phí: Bị cáo V được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, người đại diện hợp pháp và người bào chữa của bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 85/2022/HSST
Số hiệu: | 85/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về