TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 82/2021/HS-ST NGÀY 06/08/2021 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 06 tháng 8 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 58/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo: Lô Văn N; tên gọi khác: Không; sinh năm 1969, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Bản N, xã Tr, huyện Q, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ Đảng, đoàn thể: Đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam đang đình chỉ sinh hoạt đảng, trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; Con ông Lô Văn Ch (đã chết); con bà: Lương Thị Ph (đã chết); vợ: Lê Thị H; con: có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 1995; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Tr, huyện Q, tỉnh Nghệ An, có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Tạ Thị A, Trợ giúp viên trợ giúp pháp lý, chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lưu Nhật Th, sinh năm 1978 Nơi cư trú: xóm Tr, xã Ngh, huyện Ngh, tỉnh Nghệ An, vắng mặt;
2. Ông Hoàng Đệ H, sinh năm 1979 Nơi cư trú: xóm 3, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An, có mặt;
3. Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1990 Nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An, có mặt;
4. Ông Phan Tiến D, sinh năm 1988 Nơi cư trú: Bản N, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An, có mặt;
5. Ông Lang Anh T, sinh năm 1990 Nơi cư trú: Bản H, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An, có mặt;
6. Ông Nguyễn Trường L, sinh năm 1987 Nơi cư trú: Bản N, xã Tr, huyện Q, tỉnh Nghệ An;
7. Ông Sầm Văn T, sinh năm 1986 Nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An, có mặt;
Đều là cán bộ của Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên P huyện Q thuộc Sở nông nghiệp và phát triển nông thông Nghệ An.
- Người làm chứng: Ông Lô Văn H, sinh năm 1976, Trú tại Bản N, xã Tr, huyện Q, tỉnh Nghệ An, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 25 tháng 02 năm 2021, thực hiện Kế hoạch số 05/QĐ-BQL-KL ngày 22 tháng 02 năm 2021 của Ban quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt thuộc Sở nông nghiệp và phát triển nông thông Nghệ An về kiểm tra công tác quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng thuộc lâm phần Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt quản lý trên địa bàn xã Tri Lễ thời gian sau Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021, ông Lưu Nhật Th - Phó hạt trưởng - Tổ trưởng; ông Hoàng Đệ H - Đội trưởng - Tổ phó; ông Nguyễn Văn M; ông Phan Tiến D; ông Lang Anh T; ông Nguyễn Trường L và ông Sầm Văn T là Tổ viên - đều là cán bộ của Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên P mặc trang phục đúng quy định đi tuần tra rừng tại xã Tri Lễ, huyện Quế Phong. Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, khi đến khoảnh 9 tiểu khu 103 thuộc bản Nóng, xã Tri Lễ, huyện Quế Phong thì phát hiện Lô Văn N đang sử dụng hai con trâu kéo hai khúc gỗ hình trụ tròn, tại thời điểm kiểm tra Lô Văn N không xuất trình được giấy tờ liên quan đến 02 khúc gỗ trên, Ông Lưu Nhật Th giải thích về nhiệm vụ đang thi hành và yêu cầu Lô Văn N đưa 02 con trâu và 02 khúc gỗ về UBND xã Tri Lễ để xử lý theo quy định của pháp luật nhưng Lô Văn N không đồng ý, ông Nguyễn Văn M dùng tay lấy dao của Lô Văn N đang đeo trên người thì Lô Văn N không cho lấy, đồng thời dùng tay trái đẩy vào ngực ông Nguyễn Văn M làm ông M ngã xuống đất, rồi Lô Văn N bỏ đi, khi Lô Văn N bỏ đi tổ công tác tiếp tục đi kiểm tra rừng để lại ông Lưu Nhật Th, Phan Tiến D và ông Lang Anh T ở lại bảo vệ tang vật. Khoảng 30 phút sau Lô Văn N quay lại dùng dao chặt đứt hai sợi dây buộc 02 con trâu, đuổi trâu chạy vào rừng. Lô Văn N chạy đuổi trâu trên tay cầm dao, lúc đó có ông Phan Tiến D chạy trước bị ngã xuống đất, đúng lúc này có anh Lô Văn H, sinh năm 1976, trú tại Bản N, xã Tr, huyện Q (Là em trai của Lô Văn N) đi đến nói với Lô Văn N “Lấy trâu về đi, đừng có nóng”. Sau đó Lô Văn N quay lại nhìn thấy 01 con trâu của mình đang đứng phía sau ông Lưu Nhật Th nên Lô Văn N chạy đến tay phải nắm cổ áo ông Lưu Nhật Th, tay trái cầm dao đe dọa và chửi “Địt mẹ chúng mày làm quá đáng” rồi đẩy ông Lưu Nhật Th sang một bên và đuổi trâu đi vào rừng, đuổi được trâu vào rừng Lô Văn N bỏ về nhà, sau khi Lô Văn N bỏ về Tổ công tác gồm ông Th, D và T cũng cũng đi về, trên đường về ông Phan Tiến D dùng điện thoại di động điện báo tin cho cho ông Hoàng Đệ H nói “Các anh về đi, họ cầm dao đuổi chém nhà em và giờ họ đang đi tìm các anh” nên ông H nói với tổ công tác đi về. Nhiệm vụ kiểm tra công tác quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng trên địa bàn sau đó không thể tiếp tục thực hiện theo Kế hoạch được.
Về vật chứng của vụ án thu giữ:
- 01 (Một) con dao dài 46,5cm, cán dao dài 20,8cm được làm bằng gỗ, võ bọc bằng kim loại, 01 (Một) bao dao làm bằng gỗ có kích thước dài 29,2cm, rộng 8,5cm, dày 3,8 cm vỏ bao được buộc bằng dây vải, được niêm phong theo đúng quy định.
Vật chứng nêu trên đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Phong chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Phong bảo quản chờ xử lý.
- 02 (Hai) khúc gỗ hình trụ tròn, khúc gỗ thứ nhất có chiều dài 6,3m đường kính 24 x 34cm, khúc gỗ thứ hai có chiều dài 6,3m đường kính 26 x 31cm.
Vật chứng nêu trên đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Phong giao cho Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt xử lý theo quy định.
Tại phiên tòa Lô Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.
Cáo trạng số 67/CT-VKS- HS ngày 09/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Lô Văn N về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã kết luận và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Lô Văn N từ 12 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 24 tháng đến 36 tháng.
Về vật chứng: Căn cứ vào điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) con dao dài 46,5cm, cán dao dài 20,8cm được làm bằng gỗ, võ bọc bằng kim loại, 01 (Một) bao dao làm bằng gỗ có kích thước dài 29,2cm, rộng 8,5cm, dày 3,8 cm vỏ bao được buộc bằng dây vải của Lô Văn N.
Hành vi vận chuyển lâm sản là 02 (Hai) khúc gỗ hình trụ tròn, khúc gỗ thứ nhất có chiều dài 6,3m đường kính 24 x 34cm, khúc gỗ thứ hai có chiều dài 6,3m đường kính 26 x 31cm trái phép của Lô Văn N chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An chuyển vụ việc của Lô Văn N đề nghị BQL khu BTTT Pù hoạt, huyện Quế Phong xử phạt hành chính.
Người bào chữa không tranh luận về tội danh và đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo; bị cáo rất ăn ăn hối hận do hành vi đã gây ra.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người bào chữa và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận như sau: vào khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 25 tháng 02 năm 2021, tại khu vực khoảnh 9 tiểu khu 103 thuộc bản Nóng, xã Tri Lễ, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, trong khi Tổ công tác gồm các ông Lưu Nhật Th; Hoàng Đệ H; Nguyễn Văn M; Phan Tiến D; Lang Anh T; Nguyễn Trường L và ông Sầm Văn T đều là cán bộ của Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên P đang làm nhiệm vụ kiểm tra công tác quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng thì Lô Văn N đã có hành vi dùng lời lẽ chửi bới thô tục, xúc phạm Tổ công tác, dùng vũ lực chống đối, cản trở tổ công tác làm nhiệm vụ. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong truy tố bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[3] Về tính chất mức độ hành vi, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có hành vi cản trở tổ công tác là cán bộ của Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt đang làm nhiệm vụ kiểm tra công tác quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng khi đang thi hành nhiệm vụ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương và xã hội. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có anh trai ruột là người có công với cách mạng được Tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẽ vang hạng ba. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong đề nghị xử phạt bị cáo Lô Văn N từ 12 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách tư 24 tháng đến 36 tháng; Người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa là phù hợp.
[5] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.
[6] Về vật chứng: 01 (Một) con dao dài 46,5cm, cán dao dài 20,8cm được làm bằng gỗ, võ bọc bằng kim loại, 01 (Một) bao dao làm bằng gỗ có kích thước dài 29,2cm, rộng 8,5cm, dày 3,8 cm vỏ bao được buộc bằng dây vải của Lô Văn N nên cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Đối với hành vi vận chuyển 02 (Hai) khúc gỗ hình trụ tròn, khúc gỗ thứ nhất có chiều dài 6,3m đường kính 24 x 34cm, khúc gỗ thứ hai có chiều dài 6,3m đường kính 26 x 31cm trái phép của Lô Văn N chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An chuyển vụ việc của Lô Văn N đề nghị BQL khu BTTT Pù hoạt, huyện Quế Phong xử phạt hành chính.
[80.] Về án phí: Người bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự;
Tuyên bố: Lô Văn N phạm tội “Chống người thi hành công vụ”;
Xử phạt: Lô Văn N 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Lô Văn N cho Ủy ban nhân dân xã Tri Lễ, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp cùng Ủy ban nhân dân xã và người được phân công trong việc giám sát, giáo dục người đó, thông báo kết quả chấp hành án của bị cáo với Ủy ban nhân dân xã khi có yêu cầu.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách: “Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.
Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ: 01 (Một) con dao dài 46,5cm, cán dao dài 20,8cm được làm bằng gỗ, võ bọc bằng kim loại, 01 (Một) bao dao làm bằng gỗ có kích thước dài 29,2cm, rộng 8,5cm, dày 3,8 cm vỏ bao được buộc bằng dây vải của Lô Văn N (Đặc điểm theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Công an huyện Quế Phong và Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Phong ngày 11/6/2021).
Về án phí: Căn cứ vào Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Lô Văn N phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo đối với bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.
Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 82/2021/HS-ST
Số hiệu: | 82/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quế Phong - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về