TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 75/2024/HS-ST NGÀY 22/04/2024 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 22 tháng 4 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2024/TLST- HS ngày 12 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2024/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn N, sinh năm 1967 tại Hà Nội; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Z, xã HK, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 7/10; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; Con ông Nguyễn Viết Đ (chết) và bà Đào Thị Kh (chết); Vợ: Nguyễn Thị Th; Con: Có 03 con (lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2005); Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 25/HSST ngày 11/6/1993, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; Tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2023 đến ngày 19/01/2024; Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Nguyễn Kim T, sinh năm 1990 (vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn MN, xã MĐ, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội;
Nơi làm việc: Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Sóc Sơn.
- Anh Nguyễn Đức D, sinh năm 1989 (vắng mặt);
Địa chỉ: Thôn AT, xã HQ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên;
Nơi làm việc: Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Sóc Sơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thực hiện Kế hoạch số 330/KH-CASS-CSGT,TT ngày 30/11/2023 của Công an huyện Sóc Sơn và Kế hoạch số 383/KH-CSGT,TT ngày 08/12/2023 của Đội Cảnh sát giao thông, trật tự, Công an huyện Sóc Sơn về việc tuần tra, kiểm soát bảo đảm trật tự, an toàn giao thông địa bàn huyện Sóc Sơn tháng 12/2013, ngày 15/3/2023, Tổ công tác của Đội Cảnh sát giao thông, trật tự, Công an huyện Sóc Sơn gồm: Anh Lê Hồng L – tổ trưởng, anh Nguyễn Thành Tr, anh Nguyễn Văn Tr1, anh Nguyễn Đức L1, anh Nguyễn Kim T, anh Nguyễn Đức D, anh Nguyễn Việt L2, anh Nguyễn Mạnh C, anh Nguyễn Đức T1 và anh Vũ Văn Tr3 thực hiện nhiệm vụ kiểm soát bảo đảm an ninh trật tự, an toàn giao thông thời gian từ 21 giờ 30 đến 23 giờ 00 tại km0+300, đường 35 thuộc địa phận thôn PN, xã TG, Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Đến khoảng 22 giờ 15 phút cùng ngày, anh Nguyễn Mạnh C phát hiện Nguyễn Văn N điều khiển xe mô tô BKS 20H1-212.82 phía sau chở vợ là chị Nguyễn Thị Th có biểu hiện sử dụng rượu, bia nên đã thông báo qua bộ đàm cho tổ công tác dừng xe, kiểm tra. Lúc này, anh Nguyễn Văn Tr1 và anh Nguyễn Đức D ra hiệu lệnh cho N dừng xe thì N không chấp hành, điều khiển xe lách tránh và đi qua. Khi đi được khoảng 20m, anh Nguyễn Kim T tiếp tục ra hiệu lệnh dừng xe thì N dừng lại, anh T yêu cầu N xuất trình giấy tờ xe, giấy phép lái xe để kiểm tra, đồng thời Tổ công tác yêu cầu kiểm tra nồng độ cồn thì N không chấp hành. Tổ công tác tiếp tục yêu cầu N và chị Th chấp hành thì N dùng tay đẩy anh T không cho chị Th xuống xe để kiểm tra theo quy định. Đồng thời, N văng tục, chửi bậy, xúc phạm, thách thức Tổ công tác khiến Tổ công tác không thể kiểm tra nồng độ cồn với N. Đỉnh điểm khi tổ công tác kiên quyết yêu cầu N chấp hành thì N chống đối quyết liệt và dùng tay đẩy anh D lùi lại. Lúc này Tổ công tác buộc phải khống chế N đưa về trụ sở Công an xã TG để lập biên bản, tại đây Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra nồng độ cồn trong khí thở của Nguyễn Văn N, kết quả 0,241 mg/lít khí thở. Sau đó, Công an xã TG đã bàn giao đối tượng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sóc Sơn điều tra, xử lý.
Bản cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 07/3/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo khai: Tối ngày 30/12/2021, bị cáo khiển xe mô tô BKS 20H1-212.82 phía sau chở vợ là Nguyễn Thị Th đi ăn cùng đội thợ xây tại thị trấn SS. Ăn xong, mọi người rủ nhau đi hát karaoke ở BA, đến khoảng 22h thì bị cáo chở vợ về nhà. Khi vợ chồng bị cáo đi đến khu vực sân bóng thuộc xã TG thì bị lực lượng Công an yêu cầu dừng xe để kiểm tra nồng độ cồn. Do có hơi men trong người và lo sợ bị xử phạt nên bị cáo không chấp hành yêu cầu của các anh Công an và nói tục, chửi bậy, xúc phạm, ru đẩy, chống đối việc kiểm tra nồng độ cồn. Sau đó, bị cáo bị cưỡng chế đưa vào trụ sở Công an xã TG làm việc. Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và rất hối hận nhưng bị cáo hiện đang nuôi mẹ già, em trai bị bệnh tâm thần nên nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về chăm sóc gia đình.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Kim T, anh Nguyễn Đức D vắng mặt tại phiên tòa nhưng lời khai có trong hồ sơ thể hiện: Ngày 15/12/2023, các anh cùng 8 đồng chí khác trong Tổ công tác của Đội Cảnh sát giao thông, trật tự, Công an huyện Sóc Sơn mặc đúng trang phục Công an nhân dân và Cảnh sát giao thông thực hiện nhiệm vụ kiểm soát bảo đảm an ninh trật tự, an toàn giao thông thời gian từ 21 giờ 30 đến 23 giờ 00 tại km0+300, đường 35 thuộc địa phận thôn PN, xã TG, Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, nhiệm vụ của các anh là dừng xe, chốt chặn và hỗ trợ các thành viên khác thực hiện nhiệm vụ. Khoảng 22h15, trên bộ đàm thông báo có 01 N giới điều khiển xe mô tô phía sau chở 01 nữ giới (sau này các anh biết là Nguyễn Văn N và vợ là Nguyễn Thị Th) có dấu hiệu sử dụng rượu, bia khi tham gia giao thông, anh D ra hiệu lệnh cho N dừng xe nhưng N điều khiển xe lách qua và đi thẳng đến vị trí chỗ anh T làm nhiệm vụ. Thấy vậy, anh T ra hiệu lệnh dừng xe và đã dừng được xe của N, anh T yêu cầu N xuất trình giấy tờ xe, giấy phép lái xe nhưng N không chấp hành, anh T tiếp tục yêu cầu N kiểm tra nông độ cồn, N vẫn không chấp hành nên anh D và một số đồng chí trong Tổ công tác đến hỗ trợ anh T thực hiện nhiệm vụ. Sau đó, anh T đã giải thích quy định của pháp luật để N chấp hành kiểm tra nông độ cồn nhưng N không chấp hành và có lời lẽ văng tục, chửi bậy xúc phạm, thách thức Tổ công tác, đồng thời xúi giục chị Th điều khiển xe mô tô bỏ chạy. Anh T, anh D và các đồng chí trong Tổ công tác tiếp tục giải thích và nhiều lần yêu cầu N chấp hành nhưng N không chấp hành, thậm chí dùng tay ru đẩy các anh khiến Tổ công tác không thực hiện nhiệm vụ. Thấy sự việc diễn biến phức tạp, Tổ công tác đã phối hợp với Công an xã TG khống chế đưa N về trụ sở làm việc và tiến hành kiểm tra nồng độ cồng của N, kết quả 0,241 mg/lít khí thở. Tổ công tác đã bàn giao N cho Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn. Nay các anh không bị thương tích gì và không yêu cầu bị cáo bồi thường về dân sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 330, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự:
- Xử phạt Nguyễn Văn N mức án từ 06 đến 09 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2023 đến ngày 19/01/2024.
- Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường về dân sự nên không đặt ra giải quyết.
- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 22h15, Tổ công tác của Đội Cảnh sát giao thông, trật tự - Công an huyện Sóc Sơn đang thực hiện nhiệm vụ kiểm soát bảo đảm an ninh trật tự, an toàn giao thông tại km0+300, đường 35 thuộc địa phận xã TG, Sóc Sơn, thành phố Hà Nội theo kế hoạch của Công an huyện Sóc Sơn thì phát hiện Nguyễn Văn N điều khiển xe mô tô BKS 20H1-212.82 phía sau chở chị Nguyễn Thị Th có biểu hiện sử dụng rượu, bia. Thấy vậy, anh Nguyễn Đức D là thành viên Tổ công tác ra hiệu lệnh cho N dừng xe nhưng N không chấp hành, điều khiển xe lách qua. Sau đó, anh Nguyễn Kim T tiếp tục ra hiệu lệnh dừng xe và yêu cầu N xuất trình giấy tờ xe, giấy phép lái xe để kiểm tra, đồng thời yêu cầu N thực hiện kiểm tra nồng độ cồn nhưng N không chấp hành và xúi giục chị Th điều khiển xe bỏ đi. Tổ công tác nhiều lần giải thích và tiếp tục yêu cầu N thực hiện kiểm tra nồng độ cồn thì N văng tục, chửi bậy, xúc phạm, thách thức Tổ công tác và dùng tay ru đẩy anh D, anh T nhằm cản trở Tổ công tác không thực hiện được nhiệm vụ. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như nêu trên là có căn cứ.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, gây mất trật tự trị nơi xảy ra tội phạm, làm ảnh hưởng đến uy tín, cản trở việc thực hiện nhiệm của người thi hành công vụ. Do đó, việc đưa các bị cáo ra truy tố, xét xử trước pháp luật là cần thiết nhằm răn đe, giáo dục bị cáo đồng thời góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét đến nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà Bộ luật hình sự đã quy định.
Về nhân thân: Tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, năm 1993, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn xử phạt Nguyễn Viết N 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Tại phiên tòa, bị cáo xác định bản án nêu trên là xử phạt đối với bị cáo, việc bản án trên xác định bị cáo tên Nguyễn Viết N là sai sót. Đồng thời tại Biên bản làm việc ngày 05/02/2024 của Công an huyện Sóc Sơn xác định: Nguyễn Văn N, sinh năm 1967 và Nguyễn Viết N, sinh năm 1967, đều có có bố là Nguyễn Viết Đ, mẹ là Đào Thị Kh là cùng một người. Do đó, có đủ cơ sở xác định Bản án số: 25/HSST ngày 11/6/1993 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn xét xử đối với bị cáo Nguyễn Văn N.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bố vợ bị cáo là người có công với cách mạng, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Xét thấy, bị cáo nhận thức được quy định của Nhà nước về việc cấm sử dụng rượu, bia khi tham gia giao thông nhưng bị cáo cố tình vi phạm. Khi Tổ công tác thực hiện nhiệm vụ, bị cáo không những không chấp hành mà còn có lời nói, thái độ chống đối, ru đẩy, cản trở người đang thi hành nhiệm vụ thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Đối với hành vi không chấp hành yêu cầu kiểm tra nồng độ cồn của người thi hành công vụ; điều khiển xe mô tô hai bánh không có giấy phép lái xe và không mang theo Giấy tờ đăng ký xe theo quy định của Nguyễn Văn N: Ngày 26/12/2023, Công an huyện Sóc Sơn đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền là phù hợp.
[3] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường nên ghi nhận.
[4] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 330, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt Nguyễn Văn N 06 (sáu) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành hình phạt tù, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2023 đến ngày 19/01/2024.
Ghi nhận sự tự nguyện của anh Nguyễn Kim T, anh Nguyễn Đức D không yêu cầu bị cáo bồi thường gì về dân sự.
Căn cứ khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự./.
Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 75/2024/HS-ST
Số hiệu: | 75/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về