TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 83/2022/HS-PT NGÀY 11/05/2022 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT VÀ CƯỚP TÀI SẢN
Trong các ngày 09 và ngày 11 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 166/2021/TLPT-HS ngày 22 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo Dương Hoàng L và Huỳnh Tấn Đ do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2021/HS-ST, ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Long An.
Bị cáo kháng cáo:
1. Dương Hoàng L (Tên gọi khác: P), sinh năm 1994 tại Đồng Tháp. Nơi cư trú: Ấp 1, xã A, huyện N, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn C và bà Nguyễn Thị T; có vợ tên Phạm Thị Cẩm N1 và có 01 con chung; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 170/2013/HSST ngày 22/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Long An xử phạt Dương Hoàng L 03 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 31/8/2015, đến nay đương nhiên được xóa án tích; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/11/2020 đến ngày 01/9/2021 cho tại ngoại đến nay, có mặt.
2. Huỳnh Tấn Đ (Tên gọi khác: C1), sinh năm 1993 tại Long An. Nơi cư trú: Ấp X, xã H1, huyện H, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Anh T1 và bà Nguyễn Thị L1; bản thân chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/10/2020 đến ngày 01/9/2021 cho tại ngoại đến nay, có mặt.
Các bị cáo không kháng cáo không triệu tập:
1. Thái Văn S, sinh ngày 01/5/2002 tại Sóc Trăng. Nơi cư trú: Ấp T2, xã Đ1, huyện T3, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Không có; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thái Văn K và bà Đinh Thị T4; bản thân chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/10/2020 đến nay.
2. Trần Linh Đ, sinh năm 1989 tại Cần Thơ. Nơi cư trú: Khu vực T5, phường H2, quận N2, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Không có; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ2 và bà Bùi Ngọc H3; có vợ tên Trần Thị C2 và chưa có con chung; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/10/2020 đến nay.
Những người tham gia tố tụng khác không liên quan đến kháng cáo, không triệu tập đến phiên tòa.
- Bị hại: Anh Lê Văn Đ (C3), sinh năm 1995. Nơi cư trú: Ấp 4, xã H Đông, huyện H, tỉnh Long An.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Nguyễn Văn T6, sinh năm 1970. Nơi cư trú: Khóm 3, thị trấn T7, huyện T7, tỉnh An Giang.
2. Ông Nguyên Minh H4, sinh năm 1968. Nơi cư trú: Ấp C4, xã A1, huyện C4, tỉnh Bến Tre.
3. Ông Nguyễn Văn P1 (H5), sinh năm 1988. Nơi cư trú: Ấp M, xã M1, huyện C5, tỉnh Đồng Tháp.
Người làm chứng:
1. Ông Phạm Công T8, sinh năm 1962.
2. Ông Trần Thanh V, sinh năm 1966.
3. Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1950.
4. Ông Lê Minh H6, sinh năm 1969.
5. Ông Võ Thành A2, sinh năm 1987.
6. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1976.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 6 năm 2020, các bị cáo Dương Hoàng L (P) và Huỳnh Tấn Đ thuê nhà của ông Nguyễn Văn Quân tại ấp Bình Tiền 2, xã H Hạ, huyện H, tỉnh Long An để kinh doanh cà phê, nước uống giải khát. Đến đầu tháng 09 tháng năm 2020, bị cáo L tải trang mạng đánh bài ‘‘SV388.Com’’ và bị cáo Đ tải trang mạng cá độ bóng đá ‘‘M88. Com’’ để tổ chức cho khách đến quán uống nước có nhu cầu tham gia đánh bài và cá độ bóng đá ăn thua bằng tiền. Mỗi ngày, các bị cáo L và Đ mỗi người thu lợi từ 100.000đồng đến 150.000đồng.
Ngày 04 tháng 9 năm 2020, bị hại Lê Văn Đ (C3) đến quán cà phê của các bị cáo L và Đ tham gia đánh bài qua mạng mỗi ván số tiền từ 500.000đồng đến 1.000.000đồng và cá độ bóng đá qua mạng số tiền từ 500.000đồng đến 1.000.000đồng. Đến ngày 15 tháng 9 năm 2020, bị hại Đ (C3) thua và nợ tiền của bị cáo L số tiền 11.000.000đồng và thua, nợ bị cáo Đ số tiền 10.000.000đồng rồi bỏ trốn không trả. Các bị cáo L và Đ nhiều lần tìm bị hại Đ (C3) để lấy tiền nhưng không gặp.
Đến khoảng 09 giờ 30 phút ngày 23 tháng 10 năm 2020, các bị cáo L, Đ và Đ3 (T9) uống cà phê cùng với anh Võ Thành A2 tại quán cà phê không biển hiệu thuộc ấp 3, xã H Đông, huyện H, tỉnh Long An. Trong quá trình uống nước, anh An có nói cho bị cáo Đ biết việc bị hại Đ (C3) đang ở huyện H, tỉnh Long An. Bị cáo Đ sử dụng số điện thoại 0375153136 gọi cho Chinh (không xác định được nhân thân, lai lịch) kêu anh em qua quán gặp bị cáo Đ để đi tìm bị hại Đ (C3). Sau đó, C6 điều khiển xe môtô Wave màu đỏ đen (không rõ biển kiểm soát) chở Đ4 và N2 (không xác định được nhân thân, lai lịch), Đ Nhỏ điều khiển xe môtô Dream màu nâu (không rõ biển kiểm soát) chở 2 người thanh niên (không xác định được nhân thân, lai lịch), bị cáo Thái Văn S điều khiển xe môtô Wave màu đỏ (không rõ biển kiểm soát) chở Thương và Cúm (không xác định được nhân thân, lai lịch) đến quán cà phê bị cáo Đ đang uống nước gặp bị cáo Đ. Tại đây, bị cáo Đ rủ cả nhóm gồm: Các bị cáo L, S cùng với Đ3, T10, N2, Cúm, Đ Nhỏ, C6, Đ4 và 2 người thanh niên (không xác định được nhân thân, lai lịch) ‘‘Đi tìm bị hại Đ (C3) đem về quán để tính tiền bị hại Đ (C3) nợ các bị cáo Đ và L’’, được tất cả đều đồng ý. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, Đang điều khiển xe ôtô nhãn hiệu Toyota, số loại: Fortuner, màu S: Đen, số máy:
2KDS150703, số khung: 69G9D4015886, biển số: 71A-004.96 (xe bị cáo L thuê của ông Nguyễn Minh H4) chở các bị cáo Đ, L và S; C6 chở Đ4 và N2, Đ Nhỏ chở 2 người thanh niên (không xác định được nhân thân, lai lịch), Cúm chở Thương bằng xe môtô (không rõ biển kiểm soát) cùng đi tìm bị hại Đ (C3). Khi đến quán cà phê của bà Nguyễn Thị B, sinh năm: 1950, nơi cư trú tại ấp 3, H Đông, huyện H, tỉnh Long An thì thấy bị hại Đ (C3) đang ngồi võng bên trong quán. Tất cả dừng xe phía trước quán rồi cùng đi lại vị trí bị hại Đ (C3) đang nằm võng, bị cáo L kêu bị hại Đ (C3) trả tiền, bị hại Đ (C3) nói không có tiền. Bị cáo L dùng tay trái nắm cổ áo bị hại Đ (C3) và dùng tay phải đánh vào mặt bị hại Đ (C3) 2 - 3 cái. Bị cáo S và N2 dùng tay, chân đánh nhiều cái vào người bị hại Đ (C3). Bị cáo L kêu bị hại Đ (C3) lên xe đi theo bị cáo L, bị hại Đ (C3) không đồng ý và chống cự lại, bị cáo L dùng tay nắm cổ áo bị hại Đ (C3) lôi ra xe ôtô, bị cáo S và N2 dùng tay khóa hai tay bị hại Đ (C3) lại phía sau lưng rồi đẩy bị hại Đ (C3) lên xe ôtô ngồi tại băng ghế giữa. Sau đó, bị cáo Đang điều khiển xe ôtô chở các bị cáo L, S và Đ Nhỏ, bị hại Đ (C3); Bị cáo Đ điều khiển xe môtô Wave màu đỏ chở N2 và T10; Cúm điều khiển xe môtô Dream chở 02 người thanh niên, Chinh điều khiển xe Wave màu đỏ đen chở Đ4 tất cả cùng nhau đưa bị hại Đ (C3) về quán cà phê của các bị cáo L và Đ thuê tại ấp Bình Tiền 2, xã H Hạ, huyện H, tỉnh Long An. Đến nơi P, S, Đ Nhỏ và 02 người thanh niên dẫn bị hại Đ (C3) đi bộ vào quán, cho ngồi dưới nền xi măng gần trụ cột ở giữa quán, bị cáo L nằm trên võng cách bị hại Đ (C3) là 2,5 mét, bị cáo Đ ngồi trên ghế nhựa cách bị hại Đ (C3) là 0,65 mét, bị cáo S nằm trên võng cách bị hại Đ (C3) là 2,5 mét, N2 đứng phía sau bị hại Đ (C3) là 1,3 mét, Đ4 đứng phía sau bị hại Đ (C3) là 1,5 mét, bị cáo Đang đứng gần cổng cách bị hại Đ (C3) là 4,45 mét. Các bị cáo L và Đ tiếp tục kêu trả tiền nhưng bị hại Đ (C3) không có tiền trả thì bị Đ4, N2 dùng tay đánh vào người, mặt bị hại Đ (C3) 2-3 cái. Đ4 nói ‘‘bây giờ tiền mày thiếu mày tính sao’’, bị hại Đ (C3) nói không có tiền. Các bị cáo L và Đ tiếp tục yêu cầu bị hại Đ (C3) trả tiền, bị hại Đ (C3) không có tiền rồi Đ4 lấy ghế nhựa hiệu Vinh Nam, màu xanh trắng loại ghế dựa có bốn chân, cao 70 cm, rộng 30 cm, rộng 45cm có tại quán đánh vào người bị hại Đ (C3) 2- 3 cái, bị hại Đ (C3) đưa hai tay lên đở. Xong bị hại Đ (C3) lấy trong túi quần ra số tiền 8.000.000đồng đưa cho bị cáo Đ, bị cáo Đ lấy số tiền 8.000.000đồng.
Sau đó, các bị cáo L và Đ buộc bị hại Đ (C3) phải trả mỗi tuần số tiền 3.000.000đồng và bắt viết giấy nợ, bị hại Đ (C3) không đồng ý. Lúc này, có Sang (chưa xác định nhân thân, lai lịch) đến dùng tay đánh bị hại Đ (C3) 2-3 cái vào người. Riêng bị cáo Đ thì có nhờ ông Nguyễn Văn P1 (H5) là nhân viên phụ bán quán cà phê cho bị cáo L đi mua dùm 01 quyển tập nhưng ông P1 không biết để làm gì. Sau đó, bị hại Đ (C3) gọi điện thoại cho ông Võ Thành A2 mượn ông A2 trả tiền cho bị cáo L rồi bị hại Đ (C3) đưa máy cho bị cáo L nói chuyện, ông An đồng ý trả tiền cho bị hại Đ (C3) mỗi tuần 2.000.000đồng và bị hại Đ (C3) đồng ý trả cho bị cáo Đ mỗi tuần 1.000.000đồng. Nên bị cáo Đ không cho bị hại Đ (C3) viết giấy nợ mà cho bị hại Đ (C3) đi ra về. Khi bị hại Đ (C3) đi ra gần đến cổng thì bị Đ4 và N2 dùng tay đánh 2-3 cái vào người. Sau đó, bị hại Đ (C3) về nhà rồi đến Cơ quan Công an tố cáo sự việc trên.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2021/HS-ST, ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Long An đã xử:
Tuyên bố bị cáo Dương Hoàng L (P), Huỳnh Tấn Đ (C1), Thái Văn S và Trần Linh Đ phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “Cướp tài sản”.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 157; điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn Đ (C1) 01 (một) năm tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” Xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn Đ (C1) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Buộc bị cáo Đ chấp hành hình phạt chung cho 02 tội là 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/10/2020 đến ngày 01/9/2021.
Xử phạt bị cáo Dương Hoàng L (P) 01 (một) năm tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” Xử phạt bị cáo Dương Hoàng L (P) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Buộc bị cáo L chấp hành hình phạt chung cho 02 tội là 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/11/2020 đến ngày 01/9/2021.
Xử phạt bị cáo Thái Văn S 01 (một) năm tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” Xử phạt bị cáo Thái Văn S 03 (ba) năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Buộc bị cáo S chấp hành hình phạt chung cho 02 tội là 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2020.
Xử phạt bị cáo Trần Linh Đ3 01 (một) năm tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” Xử phạt bị cáo Trần Linh Đ3 03 (ba) năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Buộc bị cáo Đ3 chấp hành hình phạt chung cho 02 tội là 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2020.
Ngoài ra, án sơ thẩm C3n tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.
Ngày 23/11/2021, bị cáo Huỳnh Tấn Đ và bị cáo Dương Hoàng L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xem xét lại tội danh ‘Cướp tài sản” Tại phiên tòa P thẩm;
Bị cáo Huỳnh Tấn Đ và Dương Hoàng L thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cấp sơ thẩm đã nêu và xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Bắt giữ người trái pháp luật” về tội “Cướp tài sản” là đúng, không oan. Tuy nhiên đối với tội “Cướp tài sản” Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo tình tiết “Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự là không đúng, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại hành vi của các bị cáo và giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:
Về thủ tục: Các bị cáo Huỳnh Tấn Đ và Dương Hoàng L kháng cáo trong thời hạn luật quy định nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý xét xử vụ án theo thủ tục P thẩm là có căn cứ.
Về nội dung: Các bị cáo Huỳnh Tấn Đ và Dương Hoàng L đều khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Bắt giữ người trái pháp luật” theo khoản 1 Điều 157 Bộ luật Hình sự và tội “Cướp tài sản” theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan. Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đối các bị cáo như: Trong quá trình điều tra, xét xử các bị cáo Đ và L bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội thì bị cáo đến Công an đầu thú và đã tự nguyện thỏa thuận với bị hại bồi thường xong phần trách nhiệm dân sự, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, không yêu cầu giám định, xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận; riêng bị cáo Đ có nhân thân tốt, là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo với mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với tội “Cướp tài sản”, xử phạt các bị cáo Huỳnh Tấn Đ, Dương Hoàng L, Thái Văn S, Trần Linh Đ3 mỗi bị cáo 1 năm tù về tội “Bắt giữ người trái pháp luật”; xử phạt bị cáo Đ và bị cáo L mỗi bị cáo 3 năm 6 tháng tù và bị cáo S và bị cáo Đ3 mỗi bị cáo 3 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Bị cáo L và Đ kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và đề nghị xem xét lại tội danh ‘Cướp tài sản” về tình tiết định khung theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo. Xét thấy: Tại phiên tòa P thẩm bị cáo Đ có bổ sung tình tiết có người thân là ông nội Huỳnh Văn B1 có công Cách mạng là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng đối các bị cáo. Hành vi của các bị cáo bắt bị hại đem về quán, nhiều người tập trung xung quanh bị hại, đánh và khống chế bị hại đưa tiền, nên hành vi các bị cáo cấu thành tội “Cướp tài sản” theo quy định Điều 168 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Tuy nhiên, các bị cáo chỉ dùng tay, dùng ghế mũ đánh bị hại, không gây thương tích cho bị hại, mà cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết “sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự định khung hình phạt đối với các bị cáo là chưa đúng mà hành vi phạm tội của các bị cáo được xét xử tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự là phù hợp. Do đó, bị cáo Đ và bị cáo L có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo là có căn cứ. Các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên có căn cứ áp dụng cho các bị cáo với mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự. Từ những nhận định trên, Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2021/HS-ST, ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Long An về hình phạt đối với các bị cáo Huỳnh Tấn Đ, Dương Hoàng L, Thái Văn S, và Trần Linh Đ3 về tội “ Cướp tài sản”. Đề nghị xử phạt bị cáo Đ và bị cáo L mỗi bị cáo 2 năm 6 tháng tù, bị cáo Đ3 và bị cáo S mỗi bị cáo 02 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự, đề nghị giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2021/HS-ST, ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện H về hình phạt của các bị cáo về tội “Bắt giữ người trái pháp luật”.
Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo Dương Hoàng L và Huỳnh Tấn Đ nói lời sau cùng: Bị cáo rất ăn năn, hối lỗi về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các bị cáo Huỳnh Tấn Đ, Dương Hoàng L kháng cáo trong thời hạn của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Các bị cáo Huỳnh Tấn Đ, Dương Hoàng L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra trước phiên tòa phúc thẩm, thể hiện: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 23 tháng 10 năm 2020, tại quán cà phê không biển hiệu của bà Nguyễn Thị Bé thuộc ấp 3, xã H Đông, huyện H, tỉnh Long An, xuất phát từ việc bị hại Lê Văn Đ (C3) có nợ tiền trước đó nên các bị cáo Dương Hoàng L (P), Huỳnh Tấn Đ (C1), Thái Văn S và Trần Linh Đ3 và 02 thanh niên không xác định nhân thân, lai lịch đã thực hiện hành vi bắt giữ bị hại Lê Văn Đ trái pháp luật đem về quán cà phê của các bị cáo Huỳnh Tấn Đ và Dương Hoàng L thuê thuộc ấp Bình Tiền 2, xã H Hạ, huyện H, tỉnh Long An. Tại đây, các bị cáo Dương Hoàng L (P), Huỳnh Tấn Đ (C1), Thái Văn S và Trần Linh Đ cùng với các đối tượng Đ4, N2 có hành vi dùng tay đánh vào người, mặt bị hại Đ (C3) 2-3 cái, Đ4 tiếp tục dùng ghế nhựa hiệu Vinh Nam, màu xanh trắng cao 70cm, rộng 30cm, dài 45 có tại quán đánh vào người bị hại Lê Văn Đ (C3) 2-3 cái để chiếm đoạt của bị hại Lê Văn Đ (C3) số tiền 8.000.000đồng. Sau khi chiếm đoạt được tiền của bị hại Đ (C3) xong thì cả nhóm cho bị hại Đ (C3) ra về. Đến ngày 18 tháng 11 năm 2020, bị cáo L đến Công an đầu thú và ngày 28 tháng 10 năm 2020, bị cáo Đ đến Công an đầu thú. Như vậy, hành vi của các bị cáo Dương Hoàng L (P), Huỳnh Tấn Đ (C1), Thái Văn S và Trần Linh Đ3 có đủ yếu tố cấu thành tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo quy định tại khoản 1 Điều 157 và tội “Cướp tài sản” theo quy định tại Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm xác định tội danh trên đối với các bị cáo là đúng quy định pháp luật, không oan.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Dương Hoàng L và Huỳnh Tấn Đ: Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đối các bị cáo như: Trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo Đ và bị cáo L thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội thì các bị cáo đến Công an đầu thú và đã tự nguyện thỏa thuận với bị hại bồi thường xong phần trách nhiệm dân sự, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, không yêu cầu giám định, xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận; riêng bị cáo Đ có nhân thân tốt, là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo với mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với tội “Cướp tài sản”, xử phạt các bị cáo Huỳnh Tấn Đ, Dương Hoàng L, Thái Văn S, Trần Linh Đ mỗi bị cáo 01 năm tù về tội “Bắt giữ người trái pháp luật”; xử phạt bị cáo Đ và bị cáo L mỗi bị cáo 3 năm 6 tháng tù và bị cáo S và bị cáo Đang mỗi bị cáo 3 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Bị cáo L và bị cáo Đ kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và đề nghị xem xét lại tội danh ‘Cướp tài sản” về tình tiết định khung theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo. Xét thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đ có bổ sung tình tiết có người thân là ông nội Huỳnh Văn Bá có công với Cách mạng; bị cáo L có xác nhận của chính quyền địa phương về tham gia thiện nguyện trong phòng chống dịch tại địa phương là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng đối các bị cáo. Hành vi của các bị cáo L, Đ, S, Đ3 bắt bị hại đem về quán, nhiều người tập trung xung quanh bị hại, đánh và khống chế bị hại đưa tiền, nên cấp sơ thẩm xác định hành vi của các bị cáo cấu thành tội “Cướp tài sản” theo quy định Điều 168 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Tuy nhiên, các bị cáo dùng tay, dùng ghế mũ đánh bị hại, không gây thương tích cho bị hại mà cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết “Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự định khung hình phạt đối với các bị cáo là chưa đúng, mà hành vi phạm tội của các bị cáo được quy định xét xử tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự là phù hợp. Xét, các bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, b khoản 1 và nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nên cần áp dụng cho các bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Do đó, các bị cáo L, Đ yêu cầu giảm nhẹ hình phạt là có căn cứ nên chấp nhận.
[4] Từ nhận định đoạn [3]: Đối các bị cáo Thái Văn S, Trần Linh Đ3 phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự. Xét các bị cáo có 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cũng cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra là phù hợp.
[5] Về án phí: Căn cứ Điều 135 và 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì các bị cáo không thuộc trường hợp phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo được chấp nhận.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị theo thủ tục P thẩm có hiệu lực sau khi hết thời gian kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục P thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm b Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Dương Hoàng L và Huỳnh Tấn Đ;
Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2021/HS-ST, ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Long An về phần hình phạt đối với các bị cáo, giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo Dương Hoàng L, Huỳnh Tấn Đ, Thái Văn S, Trần Linh Đ3 về tội “Cướp tài sản”.
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2021/HS-ST, ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Long An về phần hình phạt đối với các bị cáo Dương Hoàng L, Huỳnh Tấn Đ, Thái Văn S, Trần Linh Đ3 về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”.
Tuyên bố các bị cáo Dương Hoàng L (P), Huỳnh Tấn Đ (C1), Thái Văn S và Trần Linh Đ phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “Cướp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38; khoản 1, khoản 3 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Tấn Đ (C1) 01 (Một) năm tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và 02 (Hai) năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Buộc bị cáo Huỳnh Tấn Đ chấp hành hình phạt chung cho 02 tội là 03 (Ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/10/2020 đến ngày 01/9/2021.
- Xử phạt bị cáo Dương Hoàng L (P) 01 (Một) năm tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và 02 (Hai) năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Buộc bị cáo Dương Hoàng L chấp hành hình phạt chung cho 02 tội là 03 (Ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/11/2020 đến ngày 01/9/2021.
- Xử phạt bị cáo Thái Văn S 01 (Một) năm tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Buộc bị cáo Thái Văn S chấp hành hình phạt chung cho 02 tội là 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2020.
- Xử phạt bị cáo Trần Linh Đ3 01 (Một) năm tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Buộc bị cáo Trần Linh Đ3 chấp hành hình phạt chung cho 02 tội là 02 (Hai) 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2020.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 135 và 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Dương Hoàng L, Huỳnh Tấn Đ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội bắt, giữ người trái pháp luật và cướp tài sản số 83/2022/HS-PT
Số hiệu: | 83/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/05/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về