Bản án về ly hôn xin nuôi con số 87/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 87/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ LY HÔN XIN NUÔI CON

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 212/2022/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2022, về việc “Ly hôn xin nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 17 tháng 8 năm 2022; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Dương Thị Ngọc B, sinh năm 1988 – Có mặt Địa chỉ: Khu vực 7, Phường H, Thành phố N, tỉnh Hậu Giang. Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc K, sinh năm 1986 - Vắng mặt.

Địa chỉ: ấp A, xã Đ, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Dương Thị Ngọc B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị Ngọc B và anh Nguyễn Quốc K quen biết tự nguyện tìm hiểu và quyết định kết hôn với nhau, hôn nhân tự nguyện có tổ chức đám cưới vào năm 2013 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân Phường Hiệp Thành,Thành phố Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang. Sau khi kết hôn, anh chị sống hạnh phúc được hơn 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do trong cuộc sống an chị thường xuyên cãi nhau từ đó nên bất đồng quan điểm, cuộc sống không có hạnh phúc, hiện nay anh K đã bỏ đi làm ăn xa và vợ chồng đã ly thân từ năm 2020 đến nay, chị B xét thấy không thể hàn gắn hôn nhân lại được vì anh chị không còn quan tâm chăm sóc với nhau nữa, chị B không còn tình cảm với anh K nên chị yêu cầu xin ly hôn với anh K.

Về con chung: Chị B Anh K có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 23/11/2013 và cháu Dương Quốc D1, sinh ngày 22/10/2009, khi ly hôn chị B xin nuôi cháu D và cháu D1 không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Chị B xác định không có và không có yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Quốc K vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt, niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật, nhưng anh K không có mặt cũng không cung cấp bản tự khai nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến hay bất cứ yêu cầu nào của anh K.

Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng; việc thu thập tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát đúng quy định.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định nhưng đều vắng mặt là không tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho chị Dương Thị Ngọc B được ly hôn với anh Nguyễn Quốc K .

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 23/11/2013 và cháu Dương Quốc D1, sinh ngày 22/10/2009 cho chị Dương Thị Ngọc B nuôi dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung chị B xác định không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Quốc K có hộ khẩu thường trú tại ấp An Phước, xã Đinh An, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, theo quy định tại Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

Về xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án: Quá trình giải quyết vụ án, chị B yêu cầu được ly hôn với anh K. Từ đó có đủ căn cứ để xác định quan hệ “Ly hôn xin nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Quốc K Tòa án đã thực hiện tống đạt, niêm yết hợp lệ, nhưng anh K vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh K.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị B và anh K chung sống với nhau từ năm 2013, việc chung sống là hoàn toàn tự nguyện có tổ chức lễ cưới và được hai bên gia đình đồng ý, có đăng ký kết hôn theo giấy đăng ký kết hôn số 94/2013 ngày 04/11/2013 của ủy ban nhân dân Phường Hiệp Thành Thị xã Ngã Bảy (nay là thành phố Ngã Bảy) tỉnh Hậu Giang, theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị B xin được ly hôn với anh K với lý do trong cuộc sống anh chị thường xuyên cãi nhau, từ đó anh chị thường xuyên xãy ra mâu thuẫn.

Trong quá trình giải quyết vụ án đối với bị đơn là anh K Tòa án đã nhiều lần tống đạt và thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng, tống đạt Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng anh chị hòa giải, đoàn tụ với nhau nhưng anh K đều vắng mặt không có lý do, chứng tỏ anh K không có thiện chí để hòa giải đoàn tụ, qua lời trình bày tại phiên tòa và các lời khai của chị B có trong hồ sơ thể hiện: Vợ chồng anh chị không còn liên lạc và cũng không gặp nhau từ năm 2020 đến nay, chị B không còn yêu thương quan tâm đến anh K nữa, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2020 đến nay, mỗi người đã có cuộc sống riêng, chị B không còn tình cảm với anh K nên chị B kiên quyết ly hôn với anh K. Như vậy cuộc sống hôn nhân của vợ chồng anh chị đã không thể hàn gắn được nữa, tình cảm vợ chồng không còn, sự mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật HNGĐ 2014 xử cho chị Dương Thị Ngọc B được ly hôn với anh Nguyễn Quốc K là có cơ sở và đúng pháp luật.

[3] Về con chung: Chị B anh K có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 23/11/2013 và cháu Dương Quốc D1, sinh ngày 22/10/2009, khi ly hôn chị B xin nuôi cháu D và cháu D1 không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu nuôi con của chị B HĐXX xét thấy từ khi vợ chồng ly thân đến nay, cháu D, cháu D1 do chị B nuôi dưỡng, hiện nay các cháu vẫn phát triển bình thường về mọi mặt, các cháu có nguyện vọng sống với chị B. Do đó để bảo đảm sự phát triển của con chung, cần giao cháu D cháu D1 cho chị B tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị B xác định vợ chồng không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, HĐXX không xem xét.

[5] Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ phù hợp với quy định pháp luật nên HĐXX chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: là 300.000đ buộc chị Dương Thị Ngọc B phải chịu.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 91; khoản 1 Điều 207; khoản 2 Điều 208; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 58; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Dương Thị Ngọc B về việc xin ly hôn với anh Nguyễn Quốc K.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Dương Thị Ngọc B ly hôn với anh Nguyễn Quốc K.

2. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Buộc chị Dương Thị Ngọc B nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008868, ngày 19/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

3. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 23/11/2013 và cháu Dương Quốc D1, sinh ngày 22/10/2009, cho chị Dương Thị Ngọc B nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, anh K không phải cấp dưỡng nuôi con, anh K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Anh chị có quyền làm đơn yêu thay đổi quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn xin nuôi con số 87/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:87/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;