TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 106/2024/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2024 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 30 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 221/2024/TLST- HNGĐ, ngày 12 tháng 8 năm 2024 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Sơn Thị H; Sinh năm 1993; Nơi cư trú: Số A, khóm A, phường A, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
- Bị đơn: Anh Thạch B; Sinh năm 1991; Nơi cư trú: Ấp S, xã L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (Chị H có mặt; anh B vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 03/5/2024 (BL 01) và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Sơn Thị H trình bày:
Nguyên năm 2019, chị Sơn Thị H và anh Thạch B có quen biết, sau thời gian tìm hiểu thì tổ chức đám cưới có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật và được Ủy ban nhân dân phường 1, thị xã V cấp giấy chứng nhận kết hôn số 07, ngày 03/02/2020. Sau khi kết hôn vợ chồng chị H, anh B sống chung với nhau rất hạnh phúc tại số 23/5, khóm 1, phường 1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. Nhưng đến tháng 01 năm 2023 thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể giải tỏa được, nay chị H xét hạnh phúc đã tan vỡ, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị H quyết định ly hôn. Trong thời gian chung sống chị H xác định vợ chồng có một con chung là Thạch Gia B, sinh ngày 20/4/2021, hiện cháu đang do chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H xác định vợ chồng chị H không có tài sản chung và không có nợ chung.
Nay chị H yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Trần Đề giải quyết cho chị H được ly hôn với anh Thạch B.
- Về con chung: Chị H yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung Thạch Gia B, sinh ngày 20/4/2021, chị H không yêu cầu anh B cấp dưỡng cho con chung.
- Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định chị H và anh B không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Toà án xem xét giải quyết.
Đề chứng minh cho yêu cầu khởi kiện chị H có giao nộp tài liệu chứng cứ bao gồm: Căn cước công dân của Sơn Thị H (bản sao có chứng thực); Giấy khai sinh của Thạch Gia B (bản sao có chứng thực); Giấy chứng nhận kết hôn số 07, ngày 03/02/2020 (bản sao có chứng thực); Đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải tại Tòa án; Đơn đề nghị Tòa án hỗ trợ gửi bản sao tài liệu chứng cứ; Tờ tường trình giao nộp trễ Biên lai tạm ứng án phí.
* Đối với bị đơn anh Thạch B: Dù đã được Tòa án Thông báo về việc thụ lý vụ án, tại Thông báo có thể hiện đầy đủ những tình tiết, sự kiện, tài liệu, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng anh B không phản đối, không có văn bản trình bày ý kiến. Tòa án đã thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nhận, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; triệu tập hợp lệ nhưng anh B vắng mặt không có lý do. Anh B đã được Tòa án tống đạt Thông báo kết quả phiên họp và quyết định đưa vụ án ra xét xử. Phiên tòa ngày 13/9/2024, anh B vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành hoãn phiên tòa và tiếp tục đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, nguyên đơn chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Anh B vắng mặt không có lý do.
* Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nêu quan điểm:
- Qua thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, chứng cứ được thu thập đầy đủ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đương sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, riêng bị đơn vắng mặt không có lý do, không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, không chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Hội đồng xét xử đã xác định đúng quan hệ tranh chấp là “Ly hôn và nuôi con khi ly hôn”.
- Về việc giải quyết vụ án: Xét thấy tình cảm vợ chồng chị H, anh B không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị H cho vợ chồng chị H, anh B ly hôn. Về con chung giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và anh B không phải cấp dưỡng cho con chung do chị H không yêu cầu. Về tài sản chung và nợ chung đương sự xác định không có nên không đặt ra xem xét. Ngoài ra còn buộc chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
[1.1] Về quan hệ pháp luật: Chị Sơn Thị H kết hôn với anh Thạch B và đã được Ủy ban nhân dân phường 1, thị xã V cấp giấy chứng nhận kết hôn số 07, ngày 03/02/2020 đồng thời Chị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con khi ly hôn với anh B. Do vậy, Tòa án xác định quan hệ pháp luật là Ly hôn và nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự và tranh chấp này được pháp luật điều chỉnh tại Điều 51, 56 và 58 của Luật Hôn nhân và gia đình là phù hợp.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo đơn khởi kiện lập ngày 03/5/2024, Chị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Thạch B có nơi cư trú tại ấp S, xã L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định việc Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án.
[1.3] Việc tham gia phiên tòa của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề: Trong vụ án này, Tòa án có tiến hành thu thập các tài liệu, chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề tham gia phiên tòa theo quy định tại Điều 21 của của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[2] Về xét xử vắng mặt đối với đương sự: Tại phiên tòa bị đơn Thạch B vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và khoản 3 Điều 235 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn Sơn Thị H.
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2019, chị H và anh B sau thời gian quen biết và tìm hiểu nhau đã tự nguyện tổ chức lễ cưới, sau đó có đăng ký kết hôn đúng theo trình tự thủ tục luật định và đã được Ủy ban nhân dân phường 1, thị xã V cấp giấy chứng nhận kết hôn số 07, ngày 03/02/2020. Theo Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh B là hợp pháp nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của pháp luật. Trong đó có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc trong gia đình và chung sống với nhau. Thời gian đầu thì vợ chồng chị H và anh B có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn và đã không còn chung sống với nhau mặc dù không có thỏa thuận khác và cũng không vì yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội. Như vậy, chị H và anh B đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình; Vợ chồng không còn yêu thương, tôn trọng nhau, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần thiết áp dụng các điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[3.2] Về con chung: Chị Sơn Thị H xác định vợ chồng chị H có một con chung là Thạch Gia B, sinh ngày 20/4/2021. Việc này hoàn toàn phù hợp với giấy khai sinh của cháu Thạch Gia B thể hiện là con chung của chị H và anh B. Hiện nay cháu Bảo đang do chị H trực tiếp nuôi dưỡng từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay.
[3.3] Xét yêu cầu của chị H được nuôi con chung là Thạch Gia B thấy rằng: Từ khi vợ chồng chị H, anh B sống ly thân, cháu Bảo do chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, mặc dù anh B không cùng nuôi dưỡng nhưng cháu Bảo vẫn được đảm bảo phát triển tốt về thể chất, trí tuệ và tinh thần. Đồng thời, sau khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến nay thì anh B cũng không đến để trình bày ý kiến về con chung nên coi như anh B đã từ bỏ quyền của mình đối với yêu cầu về nuôi dưỡng con chung, mặc khác hiện nay chị H có công việc ổn định và có thu nhập đảm bảo cuộc sống của con chung. Do đó, để ổn định cuộc sống cho cháu Bảo, nên giao cháu Bảo cho chị H chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các điều 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3.4] Về cấp dưỡng cho con chung: Chị H tự nguyện không yêu cầu anh B cấp dưỡng cho cháu Bảo nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[3.5] Bên cạnh đó anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở theo Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[5] Về án phí: Đây là vụ án ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án do đó trong vụ án ly hôn nguyên đơn phải chịu án sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Vì vậy chị H chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án ly hôn là 300.000 đồng. Anh B không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[6] Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ vào Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chị H được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; anh B có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.
[7] Như đã phân tích nêu trên, nhận thấy đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình ; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Sơn Thị H 1/ Về quan hệ hôn nhân: Chị Sơn Thị H được ly hôn với anh Thạch B.
2/ Về con chung: Giao cháu Thạch Gia B, sinh ngày 20/4/2021 cho chị Sơn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; anh Thạch B không phải cấp dưỡng cho con chung do chị Sơn Thị H không có yêu cầu.
Anh Thạch B có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.
3/ Về tài sản chung và nợ chung: Chị Sơn Thị H xác định không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
4/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Sơn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 00043xx, ngày 02/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Chị Sơn Thị H đã thực hiện xong. Anh Thạch B không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
5/ Về quyền kháng cáo: Báo các đương sự biết, án xử sơ thẩm công khai có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết) để xin Tòa án cấp trên xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 106/2024/HNGĐ-ST
| Số hiệu: | 106/2024/HNGĐ-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng |
| Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
| Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về