Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 297/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 297/2024/HNGĐ-ST NGÀY 21/10/2024 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 21 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 229/2023/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2023 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2024; Quyết định hoãn phiên toà số 72/2024/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2024; Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án số 03/2024/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2024; Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án số 04/2024/QĐ-ST ngày 16 tháng 9 năm 2024 và Thông báo mở lại phiên tòa số 26/TB-TA ngày 21 tháng 9 năm 2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị N; nơi cư trú: Thôn F, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt;

- Bị đơn: Anh Chan Tuck L; nơi cư trú: Số A J-P J I, Malaysia; vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, các bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án chị Vũ Thị N trình bày: Chị Vũ Thị N và anh Chan Tuck L kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp JPN N-P I Maylaysia ngày 03 tháng 4 năm 2008. Sau khi kết hôn, chị Vũ Thị N và anh Chan Tuck L chung sống tại Malaysia. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống hai vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm và lối sống, vợ chồng không có tiếng nói chung dẫn đến cuộc sống chung không hạnh phúc. Chị N trở về Việt Nam, anh chị sống ly thân từ năm 2018 đến nay không còn chung sống, quan tâm đến nhau nữa. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ là không thể nên làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Chan Tuck L

Về con chung: Chị Vũ Thị N và anh Chan Tuck L có 02 con chung là: Chan Zip Z sinh ngày 31 tháng 07 năm 2008 và cháu Vũ Minh N1 sinh ngày 02 tháng 08 năm 2016. Khi ly hôn, đề nghị Tòa án giao cả 02 con chung cho chị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và cả 02 cháu đều có đơn trình bày nguyện vọng được ở cùng mẹ. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N không yêu cầu anh Chan Tuck L phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng với cháu Chan Zip Z và Vũ Minh N1 nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Vũ Thị N và anh Chan T Loong không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn là anh Chan Tuck L hiện đang ở Malaysia.Theo địa chỉ chị Vũ Thị N cung cấp, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã tiến hành ủy thác tư pháp thông qua Bộ Tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để tống đạt thông báo thụ lý vụ án và nội dung câu hỏi yêu cầu anh Chan Tuck L trả lời để cung cấp thông tin cho Tòa án có căn cứ giải quyết vụ án. Ngày 16 tháng 9 năm 2024, Tòa án nhân dân thành phố Hải phòng nhận được Công văn số 2514/BTPPLQT ngày 28/8/2024 của Bộ Tư pháp về kết quả thực hiện ủy thác tư pháp như sau: Cơ quan có thẩm quyền của Malaysia không thực hiện được ủy thác tư pháp nêu trên do không tìm thấy địa chỉ được yêu cầu. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đề nghị chị Vũ Thị N cung cấp cho Tòa án biết địa chỉ hiện tại của anh Chan Tuck L, tuy nhiên chị Vũ Thị N không cung cấp được và yêu cầu Tòa án thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án, Cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện N2 ở nước ngoài. Tòa án đã có văn bản đề nghị đăng tải thông báo lịch xét xử cho anh Chan Tuck L trên Cổng thông tin điện tử của Đ tại Malaysia và Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng theo quy định tại điểm c khoản 6 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm: Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chị Vũ Thị N vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn anh Chan T Loong vắng mặt nhưng đã được ủy thác tư pháp tống đạt và lấy lời khai theo quy định. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là có căn cứ theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Căn cứ vào khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, các điều 9, 51, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị N: Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Vũ Thị N được ly hôn anh Chan Tuck L; về con chung: Giao 02 con chung Chan Zip Z sinh ngày 31 tháng 07 năm 2008 và Vũ Minh N1 sinh ngày 02 tháng 08 năm 2016 cho chị Vũ Thị N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi; tài sản chung: Chị Vũ Thị N và anh Chan T Loong không yêu cầu nên không đặt vấn đề xem xét, giải quyết. Chị Vũ Thị N phải chịu án phí, và các chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật. Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn. Nguyên đơn chị Vũ Thị N hiện đang sinh sống tại Hải Phòng và bị đơn anh Chan Tuck L hiện đang sinh sống tại Malaysia, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn chị Vũ Thị N vắng mặt tại phiên tòa và có đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Chan Tuck L đã được Tòa án thực hiện việc ủy thác tư pháp để tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt chị Vũ Thị N và anh Chan T Loong theo điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238, điểm c khoản 6 Điều 477 của Bộ Luật Tố tụng dân sự.

[3] Về thủ tục tống đạt cho bị đơn: Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã tiến hành ủy thác tư pháp thông qua Bộ Tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để tống đạt thông báo thụ lý vụ án và nội dung câu hỏi yêu cầu anh Chan Tuck Ltrả lời để cung cấp thông tin cho Tòa án có căn cứ giải quyết vụ án. Ngày 16 tháng 9 năm 2024, Tòa án nhân dân thành phố Hải phòng nhận được Công văn số 2514/BTP-PLQT ngày 28/8/2024 của Bộ Tư pháp về kết quả thực hiện ủy thác tư pháp như sau: Cơ quan có thẩm quyền của Malaysia không thực hiện được ủy thác tư pháp nêu trên do không tìm thấy địa chỉ được yêu cầu. Mặc dù Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng tiếp tục yêu cầu nhưng chị Vũ Thị N không biết được địa chỉ hiện tại của anh Chan Tuck L nên không thể cung cấp được cho Toà án. Tòa án đã đăng tải thông báo lịch xét xử vụ án trên Cổng thông tin điện tử của Đ tại Malaysia và Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng theo quy định tại điểm c khoản 6 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh Chan Tuck L vẫn không có văn bản cung cấp lời khai, quan điểm về việc giải quyết vụ án. Căn cứ quy định tại điểm c khoản 6 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Chan Tuck L.

- Về nội dung:

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị N kết hôn với anh Chan Tuck L và có đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp JPN N-P I Maylaysia ngày 03 tháng 4 năm 2008. Ngày 23 tháng 6 năm 2022, Đại sứ quán nước C1 tại Malaysia đã cấp trích lục ghi chú kết hôn số 238/TTGCRH đối với hai bên. Căn cứ vào Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị Vũ Thị N trình bày vợ chồng chung sống hạnh phúc được 01 thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, không có tiếng nói chung và đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Nhận thấy, chị Vũ Thị N và anh Chan Tuck L đã sống ly thân trong thời gian dài, đến nay không còn quan hệ gì về mặt tình cảm và kinh tế. Chị Vũ Thị N xác định không còn tình cảm với anh Chan Tuck L nên yêu cầu Toà án giải quyết cho chị ly hôn với anh Chan Tuck L. Xét thấy quan hệ giữa chị Vũ Thị N và anh Chan Tuck L có mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, cần căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị N, cho chị được ly hôn với anh Chan Tuck L.

[5] Về con chung: Chị Vũ Thị N và anh Chan Tuck L có 02 con chung là: Chan Zip Z (Trần Việt T1) sinh ngày 31 tháng 07 năm 2008 và Vũ Minh N1 sinh ngày 02 tháng 08 năm 2016. Xét thấy, hiện anh Chan Tuck L đang ở nước ngoài; cả hai con chung đều đang sinh sống và học tập tại Việt Nam. Chị N hiện trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng hai con chung; ngoài ra các con chung đều có đơn trình bày nguyện vọng được ở cùng mẹ. Do đó, căn cứ các điều 81, 82, 83, Hội đồng xét xử giao cả hai con chung là Chan Zip Z (Trần Việt T1) sinh ngày 31 tháng 07 năm 2008 và Vũ Minh N1 sinh ngày 02 tháng 08 năm 2016 cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác của pháp luật là có căn cứ. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N không yêu cầu anh Chan T phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Về tài sản chung: Chị Vũ Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Vũ Thị N là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.  

[8] Về phí ủy thác tư pháp: Chị Vũ Thị N phải chịu phí ủy thác tư pháp theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, Điều 151, Điều 152, Điều 153, Điều 154, khoản 1 Điều 228, Điều 273, Điều 469, Điều 470, khoản 3 Điều 474, điểm c khoản 6 Điều 477, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào 9, 51, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị N:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Vũ Thị N được ly hôn anh Chan Tuck L.

2. Về con chung: Giao 02 con chung Chan Zip Z (Trần Việt T1) sinh ngày 31 tháng 07 năm 2008 và Vũ Minh N1 sinh ngày 02 tháng 08 năm 2016 cho chị Vũ Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác của pháp luật là có căn cứ. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Vũ Thị N và anh Chan Tuck L không tài sản chung không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Vũ Thị N phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng trừ đi số tiền tạm ứng án dân sự sơ thẩm chị Vũ Thị N đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo 0000079 ngày 25 tháng 7 năm 2023 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị Vũ Thị N đã nộp đủ tiền án phí.

5. Về phí ủy thác tư pháp: Chị Vũ Thị N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) phí ủy thác tư pháp để tống đạt Văn bản tố tụng của tòa án cho anh Chan Tuck L, được trừ số tiền tạm ứng lệ phí 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai số 0000205 ngày 04 tháng 10 năm 2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng;

6. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ. Anh Chan Tuck L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ. Trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thi người được thi hành án dân sự, người phải thi hà án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 297/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:297/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/10/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;