Bản án về ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn số 128/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 128/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/07/2022 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 18 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện TN, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 25/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2022 về việc “Ly hôn và con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 115/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 17 tháng 6 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 119/2022/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lương Thị C, sinh năm 1986; địa chỉ: Chợ Ch, thôn Đường 10, xã TD, huyện TN, thành phố Hải Phòng, vắng mặt (Có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1987; địa chỉ: Chợ Ch, thôn Đường 10, xã TD, huyện TN, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Lương Thị C trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn D kết hôn với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TD vào ngày 13 tháng 8 năm 2007. Sau khi cưới vợ chồng về Chợ Ch, thôn Đường 10, xã TD, huyện TN, thành phố Hải Phòng chung sống. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến tháng 02 năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyễn nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, anh Nguyễn Văn D đã vi phạm pháp luật phải đi chấp hành án phạt tại trại giam. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn và để ổn định cuộc sống nên chị đề nghị được ly hôn anh Nguyễn Văn D Về con chung: Chị và anh Nguyễn Văn D có 01 con chung tên Nguyễn Văn Kiệt, sinh ngày 04 tháng 02 năm 2007, khi ly hôn chị Lương Thị C xin được nuôi con.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Do anh Nguyễn Văn D đang phải chấp hành án phạt tại trai giam nên chị Lương Thị C không đề nghị anh Nguyễn Văn D phải cấp dưỡng nuôi con nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Lương Thị C trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn D không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn D vắng mặt tại phiên tòa do đang phải chấp hành án tại trại giam nhưng có Bản tự khai trình bày như sau: Anh và chị Lương Thị C kết hôn với nhau trên có sở tìm hiểu tự nguyện vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TD, huyện TN, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng về Chợ Ch, thôn Đường 10, xã TD, huyện TN, thành phố Hải Phòng chung sống. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2014 thì anh phải đi chấp hành án phạt tù về tội Cướp tài sản, trong thời gian đó, chị Lương Thị C vẫn thăm nom anh nhưng đến năm 2018, anh được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù trở về nhà thì vợ chồng phát sinh mâu do chị Lương Thị C không đồng ý với việc anh thường xuyên ra ngoài ít khi ở nhà nhưng lý do này không đến mức vợ chồng phải ly hôn. Đến năm 2020, anh D tiếp tục phải đi chấp hành án phạt tù chị C vẫn quan tâm gửi đồ tiếp tế và có nói đến việc ly hôn nhưng anh D không đồng ý. Đến nay, chị C có đơn xin ly hôn, anh D vẫn giữ nguyên quan điểm không đồng ý ly hôn và đề nghị Tòa án cho anh thêm thời gian đến khi hết hạn chấp hành án khoảng 7 tháng nữa để giải quyết. Về con chung: Anh và chị C có 01 con chung tên Nguyễn Văn Kiệt, sinh ngày sinh ngày 04 tháng 02 năm 2007, anh đồng ý để chị C nuôi con nhưng anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị C. Về tài sản chung và công nợ chung: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết. Do đang phải chấp hành án phạt tù nên anh đề nghị Tòa án giải quyết xét xử vắng mặt anh.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn là chị Lương Thị C và bị đơn là anh Nguyễn Văn D được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, chị Lương Thị C có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Văn D do đang phải chấp hành án tại trại giam nên đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Kiểm sát viên đề nghị Tòa án căn cứ Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; khoản 2, Điều 227; khoản 1, Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị Hội đồng xét xử: Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lương Thị C được ly hôn anh Nguyễn Văn D; Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Văn Kiệt, sinh ngày 04 tháng 02 năm 2007 cho chị Lương Thị C trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn D đều không yêu cầu, nên không đề cập giải quyết; Về tài sản chung: Chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn D đều không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết; Về án phí: Nguyên đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và Tòa án thu thập gồm: Bản sao căn cước công dân của chị Lương Thị C; bản sao sổ hộ khẩu; bản sao giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao Giấy khai sinh của con; bản sao sổ thăm gặp; Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã TD.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Nguyên đơn là chị Lương Thị C và bị đơn là anh Nguyễn Văn D được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, chị Lương Thị C có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Văn D do đang phải chấp hành án tại trại giam nên đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn D kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TD, huyện TN, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 60 ngày 13 tháng 8 năm 2007 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Nay chị Lương Thị C xác định tình cảm vợ chồng không còn và để ổn định cuộc sống nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị Lương Thị C được ly hôn anh Nguyễn Văn D. Anh Nguyễn Văn D thừa nhận quá trình chung sống vợ chồng cũng có mâu thuẫn nhưng chưa đến mức phải ly hôn và đề nghị Tòa án gia hạn thời gian 07 tháng để anh về giải quyết. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn D phát sinh từ năm 2014, hiện nay anh Nguyễn Văn D đang phải chấp hành án phạt tù trong trại giam. Điều này chứng tỏ, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị C cho chị Lương Thị C được ly hôn anh Nguyễn Văn D.

[3]. Về con chung: Chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn D có 01 con chung tên Nguyễn Văn Kiệt, sinh ngày sinh ngày 04 tháng 02 năm 2007, khi ly hôn chị Lương Thị C có nguyện vọng được nuôi con, anh Nguyễn Văn D cũng đồng ý để chị Lương Thị C nuôi con. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh tại địa phương xác định kể từ khi anh Nguyễn Văn D đi chấp hành án thì chị Lương Thị C là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đều đảm bảo tốt về mọi mặt, khi ly hôn chị Lương Thị C có nguyện vọng xin được tiếp tục nuôi con, con chung cũng có nguyện vọng được ở với chị Lương Thị C. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung tên Nguyễn Văn Kiệt, sinh ngày sinh ngày 04 tháng 02 năm 2007 cho chị Lương Thị C nuôi dưỡng chăm sóc, cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con:

Chị Lương Thị C trình bày: Do hiện nay anh Nguyễn Văn D đang phải chấp hành án tại trại giam nên không có điều kiện cấp dưỡng nuôi con nên chị Lương Thị C không đề nghị anh Nguyễn Văn D phải cấp dưỡng nuôi con chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Anh Nguyễn Văn D đề nghị không cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Lương Thị C. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn D thống nhất trình bày không đề nghị Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí:

Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Chị Lương Thị C phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; khoản 2, Điều 227; khoản 1, Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lương Thị C được ly hôn anh Nguyễn Văn D.

2. Về con chung:

Giao con chung tên Nguyễn Văn Kiệt, sinh ngày 04 tháng 02 năm 2007 cho chị Lương Thị C trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật;

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn D thống nhất không yêu cầu, nên không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung: Chị Lương Thị C và anh Nguyễn Văn D thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Chị Lương Thị C phải nộp 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị Lương Thị C đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007808 ngày 21 tháng 01 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TN thành phố Hải Phòng.

Nguyên đơn và Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn số 128/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:128/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;