Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi số 13/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 13/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI

Ngày 17 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 301/2021/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/4/2022, Quyết định hoãn phiên toà ngày 26/4/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lèng Thị Mai D, sinh năm 1993; nơi ĐKHKTT: KDC T, phường M, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Chị D có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lăng Công C, sinh năm 1988; nơi ĐKHKTT: KDC T, phường M, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Anh C vắng mặt.

3. Người làm chứng: Ông Đinh Văn K, sinh năm 1965, địa chỉ: KDC T, phường M, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Ông K vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/11/2021, các tài liệu có trong hồ sơ, ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - chị D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lăng Công C tự nguyện kết hôn, được UBND xã Nam Xuân, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 17/12/2013. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống đến năm 2016 thì bắt đầu mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là vợ chồng có suy nghĩ trái ngược, bất đồng quan điểm sống, không chia sẻ với nhau, anh C mải chơi, không chăm lo cho vợ con. Cùng năm 2016 thì anh chị cùng bố mẹ chuyển từ Đăk Nông ra KDC T, phường M, thị xã Kinh Môn, Hải Dương sinh sống. Anh chị sống cùng bố mẹ một thời gian ngắn rồi thuê nhà ở riêng gần nhà bố mẹ đẻ chị. Do cuộc sống không có hạnh phúc, từ giữa năm 2017 chị về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, anh C vẫn ở nhà mà vợ chồng thuê ở khu T, phường M, thị xã Kinh Môn. Anh chị sống ly thân từ đó đến nay. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ nên chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C.

- Về con chung: Chị và anh C có 01 con chung là cháu Lăng Mai Diễm M, sinh ngày 24/9/2015, hiện đang ở cùng chị và ông bà ngoại. Sau khi vợ chồng ly hôn, chị xin tiếp tục nuôi con đến khi cháu trưởng thành và tự nguyện không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Chị làm công nhân Công ty TNHH Điện tử Poyun VN, thu nhập bình quân khoảng 08 triệu đồng/tháng.

- Về tài sản, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn là anh C: Toà án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như các văn bản tố tụng khác cho anh C. Tuy nhiên, anh không đến Toà trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị D.

Xác minh, ông Trưởng khu dân cư T cho biết: Anh C, chị D có đăng ký hộ khẩu tại khu T, phường M, thị xã Kinh Môn, Hải Dương. Anh chị kết hôn ở đâu thì ông không nắm được nhưng về sinh sống tại địa chỉ trên từ khoảng năm 2016 đến nay. Chị D, anh C vẫn ở KDC T, phường M, chị D đi làm công ty, sáng đi tối về, còn anh C làm công việc gì ông không nắm được nhưng không thường xuyên có mặt ở nhà, thỉnh thoảng thấy anh về 1 đến 2 hôm rồi lại đi.

Ông Đinh Văn K (là bố đẻ của chị D) cho biết: Con gái ông là Lèng Thị Mai D, chị D được lấy họ mẹ (bà Lèng Thị Đôi) để được hưởng một số chính sách khi còn ở tỉnh Đắk Nông. Chị D và anh C kết hôn và sinh sống tại tỉnh Đăk Nông đến năm 2016 thì cùng gia đình chuyển ra phường M, Kinh Môn sống cùng ông bà được mấy tháng thì anh chị ra ở riêng gần nhà ông bà. Quá trình chung sống anh chị xảy ra nhiều mâu thuẫn, nên chị D đã bỏ về chung sống cùng chúng tôi. Chị D, anh C có con chung là cháu Lăng Mai Diễm M ở cùng ông bà từ nhỏ đến nay. Anh C không có việc làm ổn định, thường xuyên đi đâu, làm gì ông không nám được, thỉnh thoảng có về nhà nhưng cũng không quan tâm đến con cái nhiều. Trường hợp Tòa án giải quyết cho chị D ly hôn và giao con cho chị D nuôi, ông bà sẽ tạo điều kiện về chỗ ở cũng như chăm sóc cháu một cách tốt nhất.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn - chị D vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn với anh C, xin tiếp tục nuôi con và tự nguyện không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản.

Bị đơn - anh C đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do.

- Đại diện viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Vtố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi nghị án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án đã thực hiện đúng quy định pháp luật. Nguyên đơn chấp hành đúng, bị đơn chưa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự.

Về nội dung: Mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, đề nghị Tòa án xử chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn, cho chị D ly hôn anh C theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình; về con chung: Căn cứ Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình, giao cho chị D tiếp tục nuôi con chung là cháu Lăng Mai Diễm M, sinh ngày 24/9/2015 đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi), chấp nhận sự tự nguyện của chị D không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. về tài sản, nợ chung: Các bên không yêu cầu, nên không xem xét; về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu cổ trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra công khai tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên toà và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về T tụng: Bị đơn - anh C có nơi cư trú tại phường M, thị xã Kinh Môn nên yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con của nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn theo quy định tại khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh C vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do, người làm chứng vắng mặt nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228, Điều 229 BLTTDS, HĐXX xét xử vắng mặt anh C và người làm chứng.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh C có đủ điều kiện, tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp.

[3] Căn cứ lời khai của nguyên đơn, biên bản xác minh và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để xác định: Quá trình cùng chung sống, chị D và anh C đã xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng không còn tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ, chia sẻ với nhau. Anh C không có việc làm ổn định, thường xuyên vắng nhà, không chăm lo, không có trách nhiệm với gia đình. Toà án đã hiệu tập anh C để hòa giải nhiều lần, tuy nhiên anh C không đến Tòa án để hình bày quan điểm và không tham gia phiên hòa giải không có lý do, cũng không về đoàn tụ chung sống cùng chị D. Điều đó thể hiện việc anh C không mong muốn vợ chồng đoàn tụ để xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Chị D vẫn cương quyết đề nghị Toà án giải quyết ly hôn với anh C. Như vậy, thấy rằng anh chị đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo Điều 19 Luật HNGĐ, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị D, xử cho chị D ly hôn anh C là phù hợp quy định tại Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về con chung: Cháu Lăng Mai Diễm M, sinh ngày 24/9/2015, hiện đang ở cùng chị D. Để đảm bảo sự ổn định và sự chăm sóc tốt nhất cho cháu, cần giao cháu M cho chị D tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi) là phù hợp; chị D làm công nhân Công ty, thu nhập bình quân đủ để đảm bảo cho cuộc sống và nuôi con nên chấp nhận sự tự nguyện của chị D không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại các điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị D, anh C đều không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị D phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị D, anh C có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 229; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu của chị Lèng Thị Mai D.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lèng Thị Mai D ly hôn anh Lăng Công C.

1.2. Về con chung: Giao cháu Lăng Mai Diễm M, sinh ngày 24/9/2015 (đang ở cùng chị D) cho chị D tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị D không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

2. Về án phí: Chị Lèng Thị Mai D phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương theo biên lai số AA/2020/0001057 ngày 26/11/2021, chị D đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi số 13/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;