Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 69/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 69/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1167/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2022, quyết định hoãn phiên toà số 43/2022/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2022, thông báo dời lịch số 58/TB-TA ngày 02/3/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Dương Thị Kiều D, sinh năm 1988.

Địa chỉ: 157 ấp 3, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu H, sinh năm 1985.

Địa chỉ: 157 ấp 3, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.

(Bà D, ông H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Dương Thị Kiều D trình bày :

Bà và ông Nguyễn Hữu H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai ngày 08/4/2009. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc.

Đến khoảng năm 2020, cuộc sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng không còn tôn trọng lẫn nhau. Mâu thuẫn trở nên trầm trọng từ năm 2021 đến nay. Bà và ông H đã nhiều lần tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Bà và ông H đã sống ly thân nhưng sống trên cùng một thửa đất của mẹ chồng bà. Nay bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà và ông H có 03 con chung tên là Nguyễn Dương Gia H, sinh ngày 13/9/2009, Nguyễn Vũ Gia T, sinh ngày 15/9/2011, Nguyễn Vũ Minh T, sinh ngày 15/9/2011. Tại phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, bà xác định xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 03 con chung. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà xin Tòa án xét xử vắng mặt vì bận công việc.

* Bị đơn ông Nguyễn Hữu H đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng ông H không có ý kiến, không đến Toà án để tham gia tố tụng.

* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai, có yêu cầu giải quyết vắng mặt nên nguyên đơn thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt tại phiên toà, không có lời khai nên bị đơn không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Dương Thị Kiều D.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Dương Gia H, sinh ngày 13/9/2009, Nguyễn Vũ Gia T, sinh ngày 15/9/2011, Nguyễn Vũ Minh T, sinh ngày 15/9/2011 cho bà D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Bà D trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết; chưa lấy được ý kiến của ông H nên không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Bà D trình bày không có, không yêu cầu Toà án giải quyết; chưa lấy được ý kiến của ông H nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về thủ tục tố tụng:

Bà Dương Thị Kiều D xin ly hôn với ông Nguyễn Hữu H. Theo phiếu xác minh ngày 15/6/2021, thể hiện bị đơn ông H có hộ khẩu thường trú và đang cư trú tại địa chỉ số nhà 157, khu phố 3, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H.

Toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông H nhưng ông H không đến Toà án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, các phiên toà xét xử mà không có lý do; Nguyên đơn bà D có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 207, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà D, ông H.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Dương Thị Kiều D:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà D và ông H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đã được UBND phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 32 ngày 08/4/2009 nên được xem là hôn nhân hợp pháp theo Điều 9, Điều 11, Điều 12 Luật hôn nhân gia đình năm 2000.

Theo trình bày của bà D thì quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên xảy ra xung đột dẫn đến vợ chồng không còn tôn trọng lẫn nhau. Bà D và ông H đã nhiều lần tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Nên bà D và ông H đã sống ly thân trên cùng một thửa đất của mẹ chồng bà D. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà D xin được ly hôn với ông H.

Tại biên bản xác minh ngày 21/6/2021, địa phương cung cấp không nắm được thông tin mâu thuẫn giữa bà D, ông H do bà D, ông H không trình báo với địa phương. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông H nhưng ông H vẫn không có ý kiến chứng tỏ ông H bỏ mặc, không mong muốn bảo vệ và duy trì hôn nhân với bà D. Xét thấy, tình trạng mâu thuẫn giữa vợ chồng bà D, ông H đã kéo dài, lâm vào tình trạng trầm trọng. Ông H không có thiện chí hoặc biện pháp để hàn gắn gia đình, mục đích hôn nhân không đạt. Vì vậy, nay bà D xin ly hôn với ông H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56, Điều 131 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

[2.2] Về con chung:

Bà D và ông H có 03 con chung tên là Nguyễn Dương Gia H, sinh ngày 13/9/2009; Nguyễn Vũ Gia T, sinh ngày 15/9/2011; Nguyễn Vũ Minh T, sinh ngày 15/9/2011. Ly hôn, bà D có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, các cháu Gia H, Minh T, Gia T đã trên 07 tuổi, qua tham khảo ý kiến, cả ba cháu có nguyện vọng được sống với bà D. Để đảm bảo cuộc sống ổn định của các cháu, nên chấp nhận yêu cầu của bà D, giao 03 cháu cho bà D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Do bà D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm thời ông H không cấp dưỡng nuôi con chung. Ông H được quyền thăm nom con không ai cản trở.

Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung: Bà D trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết. Ông H chưa có ý kiến về vấn đề này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: Bà D trình bày không có, không yêu cầu Toà án giải quyết. Ông H chưa có ý kiến về vấn đề này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết [3] Về án phí: Bà D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phù hợp với chứng cứ đã thu thập, quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 207, khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 9, 11, 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Dương Thị Kiều D. Bà Dương Thị Kiều D được ly hôn ông Nguyễn Hữu H.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Dương Gia H, sinh ngày 13/9/2009; cháu Nguyễn Vũ Gia T, sinh ngày 15/9/2011; cháu Nguyễn Vũ Minh T, sinh ngày 15/9/2011 cho bà Dương Thị Kiều D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Tạm thời ông Nguyễn Hữu H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Ông H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Bà Dương Thị Kiều D phải chịu 300.000đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà D đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0001284 ngày 11/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố H.

5. Bà Dương Thị Kiều D, ông Nguyễn Hữu H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 69/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:69/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;