Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 52/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 52/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 595/2022/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 41/2022/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2022, giữa:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị P - Sinh năm: 1994 Nơi cư trú: Thôn T, xã Q, thị xã N, tỉnh K. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn D - Sinh năm: 1988 Nơi cư trú: Thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh K. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị P trình bày: Bà và ông Nguyễn Văn D tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N vào năm 2012. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau, vợ chồng chung sống không hạnh phúc. Từ tháng 5 năm 2021 cho đến nay, vợ chồng bà không còn chung sống cùng nhau, không còn quan tâm tới nhau, mạnh ai nấy sống. Đến nay, bà xác định tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông D.

- Về con chung: Bà và ông D có 01 con chung là Nguyễn Lê Anh D, sinh ngày 23/6/2012. Nếu Tòa giải quyết ly hôn cho bà được ly hôn với ông D, bà xin được trực tiếp nuôi con chung Nguyễn Lê Anh D đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 22 tháng 3 năm 2022, ông Nguyễn Văn D trình bày: Vợ chồng ông không có mâu thuẫn gì, đã không ở chung từ tháng 5 năm 2021 cho đến nay, mạnh ai sống, không quan tâm đến nhau nữa. Nay bà P yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, ông không đồng ý vì còn thương con, con còn quá nhỏ, tội cho con. Ông không còn tình cảm với bà P nữa, nếu Tòa án giải quyết cho ông và bà P ly hôn, ông xin được trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên và không yêu cầu bà P cấp dưỡng nuôi con chung; Tài sản chung, ông không yêu cầu giải quyết.

Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập được gồm: Giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); Giấy khai sinh Nguyễn Lê Anh D (bản sao); Bản photo chứng minh nhân dân Lê Thị P, Sổ hộ khẩu (bản sao); biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa Lê Thị P và Nguyễn Văn D; biên bản tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định.

Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà Lê Thị P được ly hôn với ông Nguyễn Văn D; về con chung: Bà P và ông D có 01 con chung là Nguyễn Lê Anh D, sinh ngày 23/6/2012. Bà P xin được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên Nguyễn Lê Anh D, sinh ngày 23/6/2012. Bà P không yêu cầu ông D phải cấp dưỡng nuôi con chung; Cháu D có nguyện vọng được ở với bà P là phù hợp với quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận; về tài sản chung, nợ chung: Bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn. Bị đơn ông Nguyễn Văn D cư trú tại: Thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh K nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị P và ông Nguyễn Văn D tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã N cấp giấy chứng nhận kết hôn số 04, ngày 10 tháng 01 năm 2012 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau, vợ chồng chung sống không hạnh phúc. Từ tháng 5 năm 2021 cho đến nay, vợ chồng không còn chung sống cùng nhau, không còn quan tâm tới nhau, mạnh ai nấy sống. Bà P xác định không còn tình cảm với ông D nên yêu cầu được ly hôn với ông D. Bị đơn ông Nguyễn Văn D cũng thừa nhận không còn tình cảm với bà P, vợ chồng đã mạnh ai sống, không quan tâm nhau nữa. Ông D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để làm việc, tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt, chứng tỏ ông D có thái độ bỏ mặc, không có thiện chí hàn gắn, đoàn tụ gia đình với bà P. Như vậy, có thể thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà P và ông D đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hòa thuận và bền vững không đạt được; yêu cầu xin ly hôn của bà P là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận.

[3] Về con chung: Bà Lê Thị P và ông Nguyễn Văn D có 01 con chung là Nguyễn Lê Anh D, sinh ngày 23/6/2012. Bà P xin được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên là Nguyễn Lê Anh D, sinh ngày 23/6/2012, bà P không yêu cầu ông D phải cấp dưỡng nuôi con chung; Cháu D có nguyện vọng được ở với bà P. Xét thấy, yêu cầu của bà P là có cơ sở, phù hợp quy định của pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của cháu D nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bà Lê Thị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Xét quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị P được ly hôn ông Nguyễn Văn D.

2. Về con chung: Giao con chung chưa thành niên Nguyễn Lê Anh D, sinh ngày 23/6/2012 cho bà Lê Thị P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành; bà P không yêu cầu ông D phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông D có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Thị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Lê Thị P phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà P đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0004247 ngày 29/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa. Bà Lê Thị P đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Quy định chung: Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

79
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 52/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:52/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;