Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 51/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 51/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 129/2022/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2022 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trương Thị Ngọc B, sinh năm 1985; địa chỉ: Số 15, tổ 6, khu phố C, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Điều Đình T, sinh năm 1981; địa chỉ: Số 15, tổ 6, khu phố C, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trương Thị Ngọc B trình bày:

Bà B và ông Điều Đình T là vợ chồng, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, huyện L, tỉnh Hậu Giang năm 2006 và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 134/2006, quyển số 01 ngày 11 tháng 9 năm 2006. Thời gian đầu sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc; tuy nhiên thời gian gần đây vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, cả hai không tìm được tiếng nói chung. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên bà B khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà B và ông T có 02 con chung tên Điều Thị Quỳnh H, sinh ngày 26 tháng 02 năm 2007 và Điều Đình T1, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2014. Hiện nay, bà B và ông T cùng 02 con chung đang sống tại địa chỉ số 15, tổ 6, khu phố C, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Bà B đang làm việc theo hợp đồng cho công ty, mức lương khoảng 13.000.000 đồng/tháng. Theo đơn khởi kiện, bà B yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000 đồng/1 con đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Quá trình làm việc tại Tòa án, bà B thay đổi yêu cầu khởi kiện, cụ thể là khi ly hôn, bà B yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung và bà B không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Điều Đình T được Tòa án niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông T không đến Tòa án nhân dân thành phố T làm việc, không gửi văn bản trình bày ý kiến cho Tòa án, vì vậy Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của bị đơn ông T về việc giải quyết vụ án.

Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 26 tháng 5 năm 2022, cháu Điều Thị Quỳnh H trình bày: Cháu H đang học lớp 9 Trường Trung học cơ sở N thuộc phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Hiện tại cháu H đang sống cùng với ba, mẹ và em. Cháu H thương cả ba và mẹ nhưng cháu H muốn được ở cùng với mẹ và em.

Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày ngày 26 tháng 5 năm 2022, cháu Điều Đình T1 trình bày: Cháu T1 đang học lớp 2 Trường Tiểu học C thuộc phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Hiện tại cháu T1 đang sống cùng với ba, mẹ và chị hai. Cháu T1 thương cả ba và mẹ nhưng cháu T1 muốn được ở cùng với mẹ và chị.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân thành phố T thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đầy đủ quyền và ngh a vụ tố tụng, bị đơn vi phạm ngh a vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến và yêu cầu khắc phục gì thêm về tố tụng.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nhận thấy mâu thuẫn giữa bà B và ông T đã trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Tại đơn khởi kiện, bà B yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung tên Điều Thị Quỳnh H, sinh ngày 26 tháng 02 năm 2007 và Điều Đình T1, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2014; nhận thấy bà B có công việc và thu nhập ổn định, đủ điều kiện nuôi con. Đồng thời cần tạo điều kiện để cháu H và cháu T1 được sống chung với nhau, đảm bảo sự ổn định tâm lý và tình cảm của trẻ em. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao 02 con chung cho bà B nuôi dưỡng, đồng thời ghi nhận sự tự nguyện của bà B về việc không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt vấn đề xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, qua ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn bà B khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bị đơn ông T nên Tòa án xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn ông T đang cư trú tại thành phố T, tỉnh Bình Dương. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.

[1.3] Theo đơn khởi kiện, bà B yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi con 1.500.000 đồng/tháng. Quá trình giải quyết vụ án, bà B thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể bà B yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con. Việc thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện của bà B không vượt quá phạm vi, yêu cầu khởi kiện ban đầu; phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[1.4] Nguyên đơn bà B có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt, bị đơn ông T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia phiên tòa vào các ngày 13 tháng 6 năm 2022 và 29 tháng 6 năm 2022 nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà B và ông T.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà B và ông T tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, huyện L, tỉnh Hậu Giang năm 2006 và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 134/2006, quyển số 01 ngày 11 tháng 9 năm 2006. Hôn nhân của bà B và ông T là hợp pháp.

Bà B cho rằng bà B và ông T mặc dù sống chung nhà nhưng cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và không tìm được tiếng nói chung; cả hai không còn thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau thực hiện các công việc chung trong gia đình; do đó bà B khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông T.

Hội đồng xét xử xét thấy qua xác minh tại địa phương để xác định nguyên nhân mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân của vợ chồng bà B và ông T thì địa phương không rõ vì vợ chồng bà B và ông T không có trình báo với địa phương về vấn đề mâu thuẫn gia đình. Tuy nhiên thực tế, tình cảm vợ chồng giữa bà B và ông T đã không còn nên bà B mới khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông T; ông T được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng không đến Tòa án để tham gia tố tụng, cũng không có văn bản trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án, chứng tỏ ông T cũng không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà B. Như vậy, mâu thuẫn giữa bà B và ông T đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn; bà B và ông T không còn quan tâm, chăm sóc nhau, cùng nhau thực hiện các công việc chung trong gia đình; mục đích hôn nhân giữa bà B và ông T không đạt được. Do đó yêu cầu của bà B về việc được ly hôn với ông T là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Quá trình chung sống, bà B và ông T có 02 con chung tên Điều Thị Quỳnh H, sinh ngày 26 tháng 02 năm 2007 và Điều Đình T1, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2014. Hiện nay bà B có công việc và thu nhập ổn định với mức lương khoảng 13.000.000 đồng/tháng, đủ điều kiện kinh tế để nuôi con. Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 26 tháng 5 năm 2022, cháu H và cháu T1 có nguyện vọng được sống cùng với nhau và sống cùng với bà B. Để đảm bảo sự ổn định về môi trường sống, nơi học tập, đảm bảo sự ổn định tâm lý, tạo điều kiện cho cháu H và cháu T1 được sống cùng với nhau thì cần giao cháu H và cháu T1 cho bà B nuôi dưỡng. Bà B yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là có căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bà B về việc không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà B không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà B phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 244 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị Ngọc B đối với bị đơn ông Điều Đình T về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương Thị Ngọc B được ly hôn với ông Điều Đình T.

- Về con chung: Giao cháu Điều Thị Quỳnh H, sinh ngày 26 tháng 02 năm 2007 và cháu Điều Đình T1, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2014 cho bà Trương Thị Ngọc B trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trương Thị Ngọc B về việc không yêu cầu ông Điều Đình T cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Trương Thị Ngọc B và ông Điều Đình T được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con, không ai được quyền cản trở. Trường hợp ông Điều Đình T lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi con của bà Trương Thị Ngọc B thì bà Trương Thị Ngọc B có quyền yêu cầu hạn chế quyền thăm nom con của ông Điều Đình T theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt vấn đề giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Trương Thị Ngọc B phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0001035 ngày 14 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương.

3. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 51/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:51/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;