Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 09/2022/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 20212 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:45/2022/QĐXXST – HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Huỳnh Kim H, sinh năm 1986; (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ A, ấp Long C, xã Long V, huyện C T, tỉnh Tây Ninh.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1988; (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ A, ấp Long C, xã Long V, huyện C T, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06 tháng 01 năm 2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Huỳnh Kim H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh K chung sống với nhau vào năm 2010, Có tổ chức lễ cưới và ngày 01/9/2010 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Long Vĩnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Từ ngày đăng ký kết hôn vợ chồng chị chung sống không hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân: Do vợ chồng bất đồng quan điểm sống mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể gàn gắn được. Anh K không lo làm ăn, vay tiền nợ nần, có lần anh K còn đánh chị. Ngoài ra anh K còn có người phụ nữ khác bên ngoài đến hiện nay vẫn còn. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị xin ly hôn với anh K.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung tên Nguyễn Huỳnh Minh S, sinh ngày 10/7/2011, hiện nay cháu S đang sống chung nhà với chị. Chị yêu cầu giao con chung cho chị nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Nguyễn Văn K trình bày trong biên bản lấy lời khai ngày 23/3/2022:

Lời trình bày của chị H về thời gian chung sống, đăng ký kết hôn là đúng. Tuy nhiên mâu thuẫn của vợ chồng anh là những mâu thuẫn nhỏ nhặt. Vợ chồng anh ly thân từ tháng 01/2022 cho đến nay khoảng 4 tháng. Nay chị H làm đơn xin ly hôn với anh thì anh không đồng ý vì anh còn tH vợ.

Về con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung tên Nguyễn Huỳnh Minh S, sinh ngày 10/7/2011, hiện nay cháu S đang sống chung nhà với chị H. Anh đồng ý giao con cho chị H nuôi, không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo thủ tục tố tụng dân sự, không có vi phạm. Các đương sự tham gia tố tụng trong vụ án chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận cho chị Huỳnh Kim H được ly hôn với anh Nguyễn Văn K. Về con chung: Giao cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Huỳnh Minh S, sinh ngày 10/7/2011. Anh K không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị H không yêu cầu. Anh Nguyễn Văn K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn mà không ai được cản trở anh K thực hiện quyền này. Về tài sản chung: Chị H, anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết. Về nợ chung: Không có, nên không có nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Chị Huỳnh Kim H và anh Nguyễn Văn K có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt chị H, anh K.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Kim H và anh Nguyễn Văn K chung sống với nhau năm 2010, có đăng ký kết hôn ngày 01/9/2010 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Long Vĩnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

[3]. Về mâu thuẫn của vợ chồng: Theo lời khai của chị H thì trong quá trình sống chung, chị H anh K thường bất đồng ý kiến, không đồng chung quan điểm, anh K không lo làm ăn và gây nợ nần, ngoài ra anh K còn có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác bên ngoài, từ đó vợ chồng thường xuyên cãi nhau và anh K có đánh đập chị. Anh K cũng thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn và sống ly thân từ tháng 01/2022 cho đến nay. Từ đó, cho thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh K đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử xét thấy cho chị H và anh K ly hôn theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là có căn cứ.

[4]. Về con chung: Vợ chồng anh chị có 01 con chung tên Nguyễn Huỳnh Minh S, sinh ngày 10/7/2011. Chị H yêu cầu được nuôi cháu S và cháu S cũng có nguyện vọng sống với chị H. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần giao con chung tên Nguyễn Huỳnh Minh S, sinh ngày 10/7/2011 cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5]. Về tài sản chung: Chị H và anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết, nợ chung anh chị xác định không có nên không đặt ra giải quyết [6].Về án phí: Do chị Huỳnh Kim H là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Anh Nguyễn Văn K không phải chịu án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Kim H đối với anh Nguyễn Văn K. Chị Huỳnh Kim H được ly hôn với anh Nguyễn Văn K.

2. Về con chung: Giao cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Huỳnh Minh S, sinh ngày 10/7/2011. Anh K không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị H không yêu cầu.

Anh Nguyễn Văn K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn mà không ai được cản trở anh K thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung: Chị H, anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết;

4. Về nợ chung: Không có, nên không có nên không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí: Chị Huỳnh Kim H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0017064 ngày 11/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Chị Huỳnh Kim H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Nguyễn Văn K không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;