Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XM, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 4 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện XM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 308/2021/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 11 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST – HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 17/2022/QĐST – HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị O, sinh năm: 1986 (vắng mặt, có đơn xin vắng). Hộ khẩu thường trú: Ấp 3 B, xã BL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chỗ ở hiện nay: Số nhà 28, NTQ, phường LT, thành phố BR, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bị đơn: Ông Lê Minh P, sinh năm: 1978 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp 3 B, xã BL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn Bà Phạm Thị O trình bày:

Bà Phạm Thị O xây dựng gia đình với Ông Lê Minh P vào năm 2013 có đăng ký kết hôn tại UBND xã BL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, hôn nhân là trên cơ sở tự nguyện. Cuộc sống chung giữa bà O và ông P hạnh phúc đến đầu năm 20 21 thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhâ n là do bà O và ông P bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã nhau, ông P không lo làm ăn, nhậu nhẹt bê tha, hành hung vợ con. Hiện nay bà O và ông P ly thân từ tháng 3 năm 2021 cho đến nay, không còn quan hệ gì về mặt tình cảm lẫn kinh tế.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà O yêu cầu được ly hôn với ông P.

Về con chung: Bà O và ông P có 01 con chung tên Lê Anh Q, sinh ngày 04/8/2014, do bà O phải đi làm nên bà O gửi cháu Quân ở chùa. Bà O yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng co n chung, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà O và ông P tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết .

Tòa án đã triệu tập Ông Lê Minh P đến tham gia hòa giải nhiều lần nhưng ông P vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Do đó Tòa án lập biên bản về việc vắng mặt đương sự không tiến hành hòa giải được để có cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Tại các phiên Tòa ông P đều vắng mặt không có lý do.

Phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình còn bị đơn vắng mặt tại các buổi làm việc trước đây cũng như tại các phiên tòa là chưa chấp hành đúng pháp luật. Tuy nhiên vụ án còn để kéo dài quá thời hạn xét xử mà không có quyết định gia hạn là còn thiếu sót, đề nghị Tòa án rút kinh nghiệm.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ly hôn và nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Quan hệ tranh chấp: Bà Phạm Thị O yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với Ông Lê Minh P đây là quan hệ pháp luật ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn Ông Lê Minh P có nơi cư trú tại huyện XM theo điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Trong quá trình tham gia tố tụng Ông Lê Minh P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông P vắng mặt không có lý do, Bà Phạm Thị O có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy việc xét xử vắng mặt bà O, ông P là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị O và Ông Lê Minh P xây dựng gia đình vào năm 2018 có đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn (Giấy chứng nhận kết hôn số 134/2013, quyển số 01/2013 đăng ký ngày 16/10/2013 tại UBND xã BL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Theo bà O nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do ông P không lo làm ăn, nhậu nhẹt bê tha, hành hung vợ con, vợ chồng thường xuyên cãi vã.

Kết quả xác minh tại địa phương: Về tình trạng hôn nhân giữa Bà Phạm Thị O và Ông Lê Minh P có xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do ông P thường xuyên nhậu nhẹt, không lo làm ăn, ngoài ra còn đánh đập bà O. Từ tháng 9/2021 đến nay bà O không còn chung sống với ông P nữa, bà O cùng con chung đi nơi khác sinh sống, ông P vẫn còn sinh sống tại ấp 3 B, xã BL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Từ đó, cho thấy nguyên nhân mâu thuẫn giữa bà O và ông P phù hợp với lời trình bày của bà O.

Xét yêu cầu của bà O cho thấy sau khi mâu thuẫn xảy ra, lẽ ra bà Onah và ông P phải cùng tìm cách khắc phục những mâu thuẫn của vợ chồng để cuộc sống chung được hạnh phúc và cùng nhau chăm sóc, nuôi dạy con cái nhưng từ tháng 3 năm 2021 đến nay bà O và ông P ly thân. Sau khi bà O gửi đơn, Tòa án đã tiến hành nhiều phiên hòa giải để đoàn tụ vợ chồng nhưng không thể hòa giải được, ông P vắng mặt không lý do, bà O vẫn kiên quyết yêu cầu ly hôn với ông P.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng của bà O và ông P thật sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung có kéo dài cũng không mang lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà O đối với ông P.

[3] Về con chung: Bà Phạm Thị O và Ông Lê Minh P có 01 con chung tên Lê Anh Q, sinh ngày 04/8/2014 . Bà O yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu của bà O cho thấy, từ khi bà O nộp đơn, Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án cho đến nay, ông P không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình về việc bà O có yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu Quân. Xét nguyện vọng của cháu Quân cho thấy cháu Quân muốn sống cùng bà O, Hội đồng xét xử căn cứ vào tình hình thực tế và nhằm đảm bảo lợi ích về mọi mặt cho con chung nên giao cho cháu Quân cho bà O được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Bà O không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con nên hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Phạm Thị O không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội, Bà Phạm Thị O phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 5, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của Bà Phạm Thị O đối với Ông Lê Minh P.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị O được ly hôn với Ông Lê Minh P.

2. Về con chung: Giao con chung tên Lê Anh Q, sinh ngày 04/8/2014 cho bà O được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác. Ông Lê Minh P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Lê Minh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Phạm Thị O không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Phạm Thị O phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà O đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010618 ngày 23/11/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà O đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;