Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 26/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 26/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 28/2022/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1988; HKTT: Ấp H, xã H1, huyện X, tỉnh Bình Dương.

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Văn N, sinh năm 1985; HKTT: Ấp H, xã H1, huyện X, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/11/2021 và trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn bà Lê Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T và ông Huỳnh Văn N chung sống với nhau từ năm 2014. Hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vào ngày 21/12/2015 tại Ủy ban nhân dân xã H1, huyện X, tỉnh Bình Dương.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai bên bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi cự lẫn nhau, giữa vợ chồng sống chung không còn tình cảm, không có hạnh phúc. Hiện nay, bà T thấy rằng tình trạng hôn nhân đã ở mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với ông N.

- Về con chung: Quá trình chung sống bà T và ông N có 02 con chung tên Huỳnh Cao K, sinh ngày 04/11/2015 và Huỳnh Cao V, sinh ngày 30/10/2017. Khi ly hôn, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000 đồng (2.000.000 đồng/con/ tháng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Tại buổi hòa giải ngày 10/5/2022, bà T thay đổi ý kiến không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn (ông Huỳnh Văn N):

Ông N được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, không cung cấp tài liệu, chứng cứ, ý kiến cho Tòa án xem xét.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng có ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng đầy đủ, đúng trình tự, người tham gia tố tụng đúng thành phần. Phiên tòa được tiến hành đúng trình tự. Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn. Không kiến nghị khắc phục, bổ sung về thủ tục tố tụng.

Về nội dung vụ án: Các tài liệu, chứng cứ được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa cho thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Chứng cứ được Hội đồng xét xử xem xét gồm:

Đơn xin ly hôn ngày 02/11/2021; bản sao giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu; bản sao giấy khai sinh Huỳnh Cao K; Huỳnh Cao V; Giấy chứng nhận kết hôn; bản tự khai của nguyên đơn; Giấy Đơn xin giải quyết vắng mặt của bà Lê Thị T; đơn đề nghị không hòa giải ngày 10/5/2022; biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Từ những tài liệu chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ. Sau khi xem xét, thảo luận, Hội đồng xét xử nhận định, [1] Về tố tụng:

[1.1] Quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt. Việc vắng mặt của nguyên đơn là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn ông Huỳnh Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng nhưng bị đơn cố tình vắng mặt không có lý do. Nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt bị đơn.

[1.2] Nguyên đơn khởi kiện bị đơn về việc ly hôn và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Huỳnh Cao K, sinh ngày 04/11/2015 và Huỳnh Cao V, sinh ngày 30/10/2017. Bị đơn là ông Huỳnh Văn N có nơi cư trú tại ấp H, xã H1, huyện X, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quan hệ pháp luật của vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn và bị đơn chung sống với nhau từ năm 2014. Hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn theo luật định tại Ủy ban nhân dân xã H1, huyện X, tỉnh Bình Dương, theo giấy đăng ký kết hôn số 117 ngày 21/12/2015. Quá trình chung sống, giữa vợ chồng thường xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm; bị đơn thường uống rượu, chơi cờ bạc, nguyên đơn và gia đình nhiều lần khuyên ngăn nhưng bị đơn không thay đổi. Nguyên đơn xác định mâu thuẫn đã trầm trọng, không hàn gắn được. Theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác…và lý do chính đáng khác. Quá trình tiến hành tố tụng bị đơn được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, được tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như được triệu tập tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, bị đơn từ chối đến Tòa án để tham gia các buổi hòa giải. Từ đó, hội đồng xét xử nhận thấy bị đơn không có nguyện vọng đoàn tụ cùng nguyên đơn. Lời trình bày của nguyên đơn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Do đó, yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Nguyên đơn và bị đơn có 02 con chung tên Huỳnh Cao K, sinh ngày 04/11/2015 và Huỳnh Cao V, sinh ngày 30/10/2017. Khi ly hôn nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000 đồng (2.000.000 đồng/con/tháng) cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Tại buổi hòa giải, nguyên đơn thay đổi ý kiến không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay, cháu K, cháu V đang sống cùng bà T và gia đình bà T (Hộ bà Nguyễn Kim C) tại ấp H, xã H1. Qua xác minh được biết các cháu K, V ngoài sự chăm sóc của bà T còn nhận được sự quan tâm, chăm sóc (đưa đón các cháu đi học khi bà T bận đi làm) từ gia đình bà ngoại. Như vậy, việc giao các con chung cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp và đảm bảo được sự phát triển tốt nhất cho các cháu. Yêu cầu của nguyên đơn về việc trực tiếp nuôi con là có căn cứ.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không tranh chấp về tài sản chung, nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] kiến của đại diện Viện Kiểm sát về nội dung vụ án, các thủ tục tố tụng, quá trình tiến hành tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 92, 147, 227, 228, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân;

- Căn cứ vào các Điều 9, 19, 55, 56, 81, 82, 83, 84, 85 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

I. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con của bà Lê Thị T đối với ông Huỳnh Văn N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T được ly hôn với ông Huỳnh Văn N.

2. Về con chung: Giao cho bà Lê Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Cao K, sinh ngày 04/11/2015 và Huỳnh Cao V, sinh ngày 30/10/2017. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Lê Thị T không yêu cầu ông Huỳnh Văn N cấp dưỡng nuôi con.

Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị T không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

II. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Án phí ly hôn: Bà Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0007127 ngày 14 tháng 01 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 26/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:26/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;