Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 247/2019/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 247/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 10 năm 2019 tại Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý: 2100/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 9 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 282/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Kim Kỳ T, sinh năm 1975.

- Bị đơn: Bà Vũ Nguyên Từ A, sinh năm 1975.

Cùng địa chỉ thường trú: 1074, Phạm Văn Thuận, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Các đương sự có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn ông Nguyễn Kim Kỳ T trình bày:

Ông và bà Vũ Nguyên Từ A tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Tân Mai, thành phố B, tỉnh Đồng Nai và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 156, quyển số 01/2004, ngày 17/12/2004.

Từ khi kết hôn đến nay vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, bất đồng về cách nuôi dạy con cái, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau và đã ly thân 01 năm nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên ông cương quyết xin ly hôn với bà A để trả tự do cho nhau.

Ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông xin ly hôn với bà Vũ Nguyên Từ A;

- Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung tên Nguyễn Vũ Ngọc L, sinh ngày 26/8/2006, Nguyễn Vũ Lam A, sinh ngày 27/11/2009 và Nguyễn Vũ Anh T, sinh ngày 23/01/2017. Ly hôn ông yêu cầu giao 03 cháu Ngọc L, Lam A và Anh T cho bà A nuôi dưỡng, ông cấp dưỡng nuôi con 6.000.000 đồng/tháng/03 cháu.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do bận công việc nên ông T đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Tại bản tự khai đề ngày 01/10/2019 bị đơn bà Vũ Nguyên Từ A trình bày: Bà và ông T tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 156, quyển số 01/2004, ngày 17/12/2004. Từ khi kết hôn đến nay vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống tuy nhiên đều cùng nhau giải quyết, bà không biết lý do ông T xin ly hôn là gì và cũng không có biện pháp để vợ chồng hàn gắn, đoàn tụ. Bản thân bà là người theo đạo Thiên chúa, luật đạo không cho phép ly hôn nên bà không có nhu cầu ly hôn nhưng nếu ông T vẫn cương quyết ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định.

- Về con chung: Bà và ông T có 03 con chung tên Nguyễn Vũ Ngọc L, sinh ngày 26/8/2006, Nguyễn Vũ Lam A, sinh ngày 27/11/2009 và Nguyễn Vũ Anh T, sinh ngày 23/01/2017. Ly hôn ông T yêu cầu giao 03 cháu Ngọc L, Lam A và Anh T cho bà nuôi dưỡng, ông T cấp dưỡng nuôi con 6.000.000 đồng/tháng/03 cháu, bà đồng ý.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bận công việc nên bà A đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Ngoài các chứng cứ các đương sự đã cung cấp từ khi thụ lý đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn, bị đơn không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án: đã thực hiện đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định quan hệ pháp luật, tư cách của đương sự và thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật.

+ Về việc giải quyết vụ án: Từ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ được thông qua tại phiên tòa hôm nay có đủ căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T đối với bà A, về con chung đề nghị giao các cháu Nguyễn Vũ Ngọc L, Nguyễn Vũ Lam A, Nguyễn Vũ Anh T cho bà Vũ Nguyên Từ A trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của ông T về việc cấp dưỡng nuôi con số tiền 6.000.000 đồng/tháng/03 cháu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tư cách tố tụng và quan hệ tranh chấp:

Ông Nguyễn Kim Kỳ T khởi kiện yêu cầu ly hôn bà Vũ Nguyên Từ A. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định ông T là nguyên đơn, bà A là bị đơn. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bà Vũ Nguyên Từ A có địa chỉ thường trú và cư trú tại phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. C ăn cứ vào khoản 01 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự xác định yêu cầu khởi kiện của ông T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

[3] Về thủ tục tố tụng khác: Nguyên đơn ông Nguyễn Kim Kỳ T, bị đơn bà Vũ Nguyên Từ A được tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông T, bà A theo quy định của pháp luật.

[4] Về nội dung tranh chấp:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Kim Kỳ T và bà Vũ Nguyên Từ A chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 156, quyển số 01/2004, ngày 17/12/2004. Theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 xác định hôn nhân của ông T và bà A là hợp pháp.

Bà A và ông T đều thừa nhận quá trình chung sống hai bên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau. Vợ chồng đã sống ly thân 01 năm nay đến khi ông T khởi kiện. Ông T đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà A. Bà A trình bày không có biện pháp để vợ chồng hàn gắn, đoàn tụ. Mặt khác, bà là người theo đạo Thiên chúa, luật đạo không cho phép ly hôn nên bà không có nhu cầu ly hôn. Tuy nhiên, nếu ông T vẫn cương quyết ly hôn thì bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định. Tòa án đã tiến hành tổ chức hòa giải để vợ chồng ông T, bà A đoàn tụ nhưng ông bà không muốn hòa giải đoàn tụ.

Theo biên bản xác minh mâu thuẫn tại địa phương ngày 15/10/2019, nơi ông T và bà A sinh sống xác định trong cuộc sống hôn nhân của ông T, bà A có xảy ra mâu thuẫn hay không thì địa phương không nắm được vì các đương sự không trình báo với địa phương, không yêu cầu địa phương can thiệp, hòa giải.

Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa vợ chồng ông bà là có thật, đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Áp dụng quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Kim Kỳ T đối với bà Vũ Nguyên Từ A.

[4.2] Về con chung: Quá trình chung sống ông T và bà A có 03 con chung tên Nguyễn Vũ Ngọc L, sinh ngày 26/8/2006, Nguyễn Vũ Lam A, sinh ngày 27/11/2009 và Nguyễn Vũ Anh T, sinh ngày 23/01/2017. Ly hôn ông Nguyễn Kim Kỳ T yêu cầu giao 03 cháu Ngọc L, Lam A và Anh T cho bà A nuôi dưỡng. Bà Vũ Nguyên Từ A đồng ý với yêu cầu của ông T. Đồng thời nguyện vọng của cháu Nguyễn Vũ Ngọc L, Nguyễn Vũ Lam A là được ở với mẹ. Do đó, giao các cháu Nguyễn Vũ Ngọc L, Nguyễn Vũ Lam A, Nguyễn Vũ Anh T cho bà Vũ Nguyên Từ A trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Kim Kỳ T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung 6.000.000đồng/tháng/03 cháu mặc dù bà Vũ Nguyên Từ A không yêu cầu cấp dưỡng. Xét thấy, đây là sự tự nguyện của ông T, đảm bảo cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển của các con nên ghi nhận.

[4.3] Về tài sản chung, nợ chung: Ông T và bà A khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[5] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Nguyên đơn ông Nguyễn Kim Kỳ T phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con không có giá ngạch theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, 35, 39, 68, Khoản 4 Điều 147, 220, 228, 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 58, 71, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Kim Kỳ T đối với bà Vũ Nguyên Từ A.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Kim Kỳ T được ly hôn bà Vũ Nguyên Từ A.

- Về con chung: Giao con chung là các cháu Nguyễn Vũ Ngọc L, Nguyễn Vũ Lam A, Nguyễn Vũ Anh T cho bà Vũ Nguyên Từ A trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Kim Kỳ T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 6.000.000 đồng (2.000.000 đồng/cháu). Thời gian cấp dưỡng từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các cháu Nguyễn Vũ Ngọc L, Nguyễn Vũ Lam A, Nguyễn Vũ Anh T đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Ông T không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp cần thiết, một trong các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thanh toán số tiền trên, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải thanh toán cho người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không không đặt ra xem xét.

2. Về án phí:

Ông Nguyễn Kim Kỳ T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông T đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0000516 ngày 09 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố B, tỉnh Đồng Nai, ông T phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

3. Ông Nguyễn Kim Kỳ T, bà Vũ Nguyên Từ A được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 247/2019/HNGĐ-ST

Số hiệu:247/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;