Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 23/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 18 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh ĐăkLăk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 51/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13/6/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30/6/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Thu L, sinh năm 1991 (Có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Buôn C, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk

- Bị đơn: Anh Chíu A S, sinh năm 1989 (Vắng mặt) Địa chỉ: Buôn C, xã E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 11/02/2020 và quá trình tố tụng nguyên đơn chị Đặng Thị Thu L trình bày:

Chị và anh Chíu A S kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện từ năm 2010, đăng ký kết hôn ngày 10/12/2010 tại UBND xã Ea M’droh, huyện CưM’gar. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, tuy nhiên sau đó do bất đồng quan điểm sống nên xảy ra nhiều mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Từ năm 2019 đến nay thì anh chị không còn chung sống với nhau nữa, không liên lạc, không thăm hỏi nhau. Hiện nay anh Chíu A S cũng đã chung sống với người phụ nữ khác. Chị nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, không còn tình cảm với nhau, không chung sống với nhau thời gian dài. Vì vậy chị yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Chíu A S.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Chíu Trường K - sinh ngày 17/10/2013, con đang ở với chị, vì vậy chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chíu Trường K, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung.

Tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình tố tụng, Tòa án đã triệu tập bị đơn nhưng bị đơn vắng mặt nên Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai và không tiến hành hòa giải được.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Đối với Thẩm phán về cơ bản đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đối với nguyên đơn thực hiện đầy đủ, đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ các Điều 51, 56; 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Thu L, chị Đặng Thị Thu L được ly hôn với anh Chíu A S. Về con chung: Giao cháu Chíu Trường K - sinh ngày 17/10/2013 cho chị Đặng Thị Thu L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi. Về án phí: Nguyên đơn phải nộp tiền án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con chung với bị đơn có nơi cư trú tại Buôn C, xã E, huyện C thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn anh Chíu A S nhưng anh S vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất nên Tòa án xét xử vắng mặt anh Chíu A S là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Căn cứ vào lời trình bày của đương sự và các tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Chị Đặng Thị Thu L và anh Chíu A S tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã E, huyện C theo quy định của pháp luật, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống, do quan điểm sống bất đồng nên vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, cãi vã; mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên anh chị không sống chung với nhau từ năm 2019 đến nay. Trong thời gian đó hai bên không liên lạc với nhau và không có biện pháp nào để hàn gắn hạnh phúc gia đình. Do đó, việc chị L xác định mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị được ly hôn với anh S là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị Đặng Thị Thu L và anh Chíu A S có một con chung là Chíu Trường K - sinh ngày 17/10/2013, hiện cháu đang do chị Đặng Thị Thu L trực tiếp nuôi dưỡng. Chị L có nguyện vọng được nuôi cháu Kỳ sau khi ly hôn, cháu Kỳ cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị L, giao cháu Kỳ cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đặng Thị Thu L không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Bị đơn anh Chíu A S không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đặng Thị Thu L.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị Thu L được ly hôn với anh Chíu A S.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Chíu Trường K - sinh ngày 17/10/2013 cho chị Đặng Thị Thu L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đặng Thị Thu L không có yêu cầu. Anh Chíu A S có quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được ngăn cản.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Chị Đặng Thị Thu L phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0007992 ngày 17/02/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện CưM’gar, tỉnh ĐắkLắk.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 23/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;