Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 20/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

 BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 07 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn- tỉnh Hoà Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 57/2022/TLST-HNGĐ ngày 21/03/2022 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con". Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/06/2022 giữa:

- Nguyên đơn: chị Bùi Thị H, sinh năm 1989. Nơi cư trú: xóm Mọi Mới, xã Tuân Đạo, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

- Bị đơn: anh Bùi Văn C, sinh năm 1987. Nơi cư trú: xóm Mọi Mới, xã Tuân Đạo, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Vắng mặt.

bày:

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Trong đơn ly hôn và các lời khai của mình, nguyên đơn chị Bùi Thị H trình 1. Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Bùi Văn C kết hôn với nhau tháng 12/2009 trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân xã Tuân Đạo, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Sống với nhau đến năm 2020 thì giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do do tính tình không hợp nhau, anh C không quan tâm đến vợ con, khiến cuộc sống chung không có hạnh phúc, không tin tưởng và không còn tình cảm dành cho nhau nên chị H xin ly hôn để yên tâm ổn định cuộc sống và nuôi dậy con cái.

2. Về con chung: Chị H và anh C có 02 con chung là Bùi Thị Hải Yến, sinh ngày 15/8/2010 và cháu Bùi Xuân Lộc, sinh ngày 16/7/2017. Hiện cháu Yến và cháu Lộc đang tạm thời sống với bố xóm Mọi Mới, xã Tuân Đạo, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình trong thời gian chờ kết quả giải quyết của Toà án. Khi vợ chồng ly hôn, chị H đề nghị được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả 02 con chung và chưa yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung với chị.

3. Về tài sản chung: Chị H chưa yêu cầu giải quyết;

4. Về công nợ chung: chị H khai vợ chồng chị còn nợ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng) và lãi suất. Khi ly hôn, chị H đề nghị hai bên cùng có trách nhiệm trả nợ chung.

Ngoài ra chị H không có yêu cầu gì thêm.

Bị đơn anh Bùi Văn C trình bày:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh nhất trí với chị H về mối quan hệ hôn nhân như chị H trình bày. Tuy nhiên, anh cảm thấy giữa vợ chồng không có mâu thuẫn gì nên anh không nhất trí ly hôn;

2. Về con chung: Khi vợ chồng ly hôn, anh C đề nghị được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả 02 con chung là Bùi Thị Hải Yến, sinh ngày 15/8/2010 và cháu Bùi Xuân Lộc, sinh ngày 16/7/2017. Anh C chưa yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung với anh.

3. Về tài sản chung: Anh C chưa yêu cầu giải quyết;

4. Về công nợ chung: Anh C nhất trí với ý kiến của chị H, hiện vợ chồng anh còn nợ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng) và lãi suất. Khi ly hôn, anh C nhất trí hai bên cùng có trách nhiệm trả nợ.

Ngoài ra anh C không có ý kiến gì thêm.

Quan điểm của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình:

Chị H và anh C có vay nợ Ngân hàng số tiền gốc là 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng); lãi suất tính đến ngày 17/05/2022 là 1.169.863đ (Một triệu, một trăm sáu mươi chín nghìn, tám trăm sáu mươi ba đồng). Tồng cộng là 71.169.863đ (Bảy mươi mốt triệu, một trăm sáu mươi chín nghìn, tám trăm sáu mươi ba đồng). Ngân hàng đề nghị chị H, anh C cùng có trách nhiệm trả nợ.

Phát biểu quan điểm tại phiên toà, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình công nhận việc chấp hành đúng theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, HĐXX và đương sự từ khi thụ lý đến trước khi HĐXX nghị án. Về việc giải quyết vụ án Kiểm sát viên đề nghị như sau:

Về tố tụng: Anh C được tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và các văn bản tố tụng khác nhưng không chấp hành, phiên tòa đã phải hoãn một lần. Chị H và đại diện Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh C, chị H là có cơ sở theo qui định tại khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về quan hệ hôn nhân: Xác định mâu thuẫn giữa chị H và anh C đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H với anh C là phù hợp Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014.

Về con chung: Căn cứ các Điều 58; 81; 82; 83 Luật HN&GĐ năm 2014 nên đề nghị HĐXX giao cháu Lộc cho chị H, giao cháu Yến anh C trực tiếp trông nom nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp.

Về tài sản chung: chị H, anh C chưa yêu cầu giải quyết nên đề nghị HĐXX không đề cập giải quyết trong vụ án.

Về công nợ chung và về yêu cầu của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình đề nghị xem xét giải quyết theo qui định.

Ngoài ra không ai có ý kiến gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa;

căn cứ ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về thẩm quyền: Đây là vụ án về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con và bị đơn Bùi Văn C có nơi cư trú tại xóm Mọi Mới, xã Tuân Đạo, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình nên theo qui định tại khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.

- Về việc vắng mặt của các đương sự tại phiên toà: Anh C vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do dù đã được Tòa án Triệu tập hợp lệ; Chị H và đại diện Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Theo qui định tại khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh C, chị H và đại diện Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình theo thủ tục chung.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Quá trình thu thập chứng cứ giải quyết vụ án HĐXX xét thấy:

Quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh C là hợp pháp. Cuộc sống chung vợ chồng thực sự có mâu thuẫn do bất đồng về phong cách sống, không tìm được tiếng nói chung. Hiện hai bên đã sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Từ những nhận định trên thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh C đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H với anh C là phù hợp Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014.

[3]. Về con chung: Chị H và anh C có 02 con chung là Bùi Thị Hải Yến, sinh ngày 15/8/2010 và Bùi Xuân Lộc, sinh ngày 16/7/2017 hiện các con đang tạm thời sống với anh C trong khi chờ kết quả giải quyết vụ án. Khi ly hôn, chị H và anh C đều xin trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả 02 con cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác. Qua xác minh, chị H và anh C có điều kiện nuôi con như nhau; nguyện vọng của cháu Yến là mong muốn được sống với bố.

Xét quyền lợi mọi mặt của con chưa thành niên, điều kiện thực tế và nguyện vọng của đương sự thấy cần giao cháu Yến cho anh C và giao cháu Lộc cho chị H trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác là phù hợp các Điều 58; 81; 82; 83 Luật HN&GĐ năm 2014.

Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị H, anh C đều chưa yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Theo kết quả xác minh tại địa phương thì hiện chị H, anh C có đầy đủ điều kiện nuôi con. Căn cứ các Điều 82; 83 Luật HN&GĐ năm 2014 HĐXX xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị H, anh C là phù hợp.

[4]. Về tài sản: chị H và anh C đều thống nhất chưa yêu cầu giải quyết;

[5]. Về công nợ chung: chị H anh C đều thừa nhận còn nợ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng) và lãi suất. Khi ly hôn, chị H, anh C thống nhất hai bên cùng có trách nhiệm trả nợ chung.

Quan điểm của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình thì hiện chị H và anh C còn nợ Ngân hàng số tiền gốc là 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng); lãi suất tính đến ngày 17/05/2022 là 1.169.863đ (Một triệu, một trăm sáu mươi chín nghìn, tám trăm sáu mươi ba đồng). Tồng cộng là 71.169.863đ (Bảy mươi mốt triệu, một trăm sáu mươi chín nghìn, tám trăm sáu mươi ba đồng). Ngân hàng đề nghị chị H, anh C cùng có trách nhiệm trả nợ.

Từ nhận định trên, HĐXX xét thấy cần chấp nhận thoả thuận tự nguyện của chị H và anh C giao cho chị H và anh C cùng có trách nhiệm liên đới trả Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Lạc Sơn là phù hợp các Điều 27; 37; 60 Luật HNGĐ năm 2014; Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015.

[6]. Về án phí: Chị H, anh C phải chịu án phí theo qui định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 27; 37; 51; khoản 1 Điều 56; 58; 60; 81; 82; 83; 84 Luật Hôn Nhân và Gia Đình năm 2014;

Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273; Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015.

Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị H đối với anh Bùi Văn C về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con".

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị H được ly hôn anh Bùi Văn C;

2. Về con chung: Giao con chung là Bùi Thị Hải Yến, sinh ngày 15/8/2010 cho anh C và giao cháu Bùi Xuân Lộc, sinh ngày 16/7/2017 chị H trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục từ tháng 07/2022 trở đi cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác. Chị H, anh C chưa yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn pháp luật vẫn bảo hộ các quyền của cha mẹ với con chưa thành niên (quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được quyền cản trở; quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con; quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con). Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về tài sản chung: Chưa yêu cầu giải quyết;

4. Về công nợ chung: Chị H và anh C mỗi người có trách nhiệm trả Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Lạc Sơn tiền gốc là:

35.000.000đ (Ba mươi lăm triệu đồng) và lãi suất là: 584.932đ (Năm trăm tám mươi tư nghìn, chín trăm ba mươi hai đồng) (Lãi suất tính đến ngày 17/05/2022).

Kể từ ngày 18/5/2022, chị Bùi Thị H và anh Bùi Văn C còn phải tiếp tục chịu lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thì lãi suất mà chị H và anh C phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

5. Về án phí:

Chị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm và 1.779.247đ án phí dân sự. Đối trừ 300.000đ tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai thu tiền số 0004269 ngày 21/03/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn, nay chị H còn phải nộp 1.779.247đ (Một triệu, bảy trăm bảy mươi chín nghìn, hai trăm bốn mươi bảy đồng) án phí.

Anh C phải chịu: 1.779.247đ (Một triệu, bảy trăm bảy mươi chín nghìn, hai trăm bốn mươi bảy đồng) án phí dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án hoặc trích lục án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai theo qui định.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự. Người thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;