Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 270/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2021, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2022/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Hoài Ánh H, sinh năm 1994;

- Bị đơn: Anh Tạ Minh C, sinh năm 1988;

 Cùng địa chỉ: Số X, ấp N L 2, xã P T, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

(Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 09/8/2021 và lời khai trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án, nguyên đơn chị Trần Hoài Ánh H trình bày:

Chị và anh Tạ Minh C tự nguyện kết hôn với nhau và được UBND xã P T, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 21 tháng 10 năm 2013. Sau khi kết hôn, chị và anh C sống chung với gia đình nhà cha mẹ chồng.

Đến năm 2020, vợ chồng ra sống riêng. Trong thời gian sống chung, anh C không chăm lo làm ăn, thường chơi bời, cầm cố tài sản trong gia đình để ăn chơi. Sau đó, anh C đi làm xa nhưng không mang tiền bạc về để lo cho gia đình, mà còn có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Những lúc anh C nhậu nhẹt say thì còn đánh đập chị nhiều lần. Ngoài ra, anh C còn thường ghen tuông vô cớ với đồng nghiệp trong công ty của chị. Mâu thuẫn giữa vợ chồng kéo dài và gia đình hai bên đã hòa giải nhưng vợ chồng không hàn gắn được. Từ tháng 10/2021, anh C đã chuyển về lại gia đình cha mẹ đẻ sinh sống và vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Tạ Minh C.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Chị và anh C có 02 con chung là: Tạ Quyết T, sinh ngày 28/10/2013 và Tạ Minh P, sinh ngày 01/11/2016. Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại Bản tự khai ghi ngày 28/10/2021 và lời khai trong quá trình chuẩn bị xét xử, bị đơn anh Tạ Minh C trình bày:

Anh và chị Trần Hoài Ánh H tự nguyện kết hôn và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P T, huyện Tân Phú vào năm 2013. Trong thời gian sống chung, vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn với nhau: Trước đây cũng đã lâu rồi, anh có đánh bạc nhưng rất ít, anh có đánh chị H vì chị H chửi tục anh khi hai người cãi vã nhau và vì chị H không cho anh gần gũi thân thể; khoảng 01 năm nay thì anh có sử dụng rượu bia vì đi làm ăn xa và khi về nhà thì chị H có biểu hiện không rõ ràng như đặt mật khẩu điện thoại, rồi phải lén lút nghe điện thoại nên trong lúc nóng giận thì anh có đánh chị H. Tuy nhiên, anh nhận thấy những lý do mà chị H đã trình bày, những lỗi lầm của anh và mâu thuẫn giữa vợ chồng chưa đến mức độ để vợ chồng phải ly hôn. Vì vậy, anh không đồng ý ly hôn với chị Trần Hoài Ánh H.

Về con và cấp dưỡng nuôi con: Anh và chị H có 02 (hai) con chung là Tạ Quyết T, sinh ngày 28/10/2013 và Tạ Minh P, sinh ngày 01/11/2016. Bản thân anh không đồng ý ly hôn với chị H. Tuy nhiên, trường hợp vợ chồng ly hôn thì anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự giải quyết nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Để có cơ sở giải quyết vụ án, Tòa án lập Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân của các đương sự tại địa phương và thông báo kết quả thu thập tài liệu, chứng cứ gửi đến các đương sự. Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ: Nguyên đơn không có ý kiến về các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp cũng như các tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã thu thập được và không bổ sung tài liệu, chứng cứ nào khác; bị đơn vắng mặt, Tòa án đã Thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ để tống đạt theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng trình tự tố tụng theo quy định đối với một phiên tòa sơ thẩm.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Căn cứ: Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 85, 91, 92, 93 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 28, 35, 39, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn: Cho chị Trần Hoài Ánh H được ly hôn với anh Tạ Minh C; về con chung: Giao các cháu Tạ Quyết T, sinh ngày 28/10/2013 và Tạ Minh P, sinh ngày 01/11/2016 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng; anh C không cấp dưỡng nuôi con do chị H không yêu cầu; về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự có quyền khởi kiện khi có tranh chấp; về án phí: Nguyên đơn phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1] Xác định thẩm quyền giải quyết: Anh Tạ Minh C cư trú tại ấp N L 2, xã P T, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, căn cứ theo điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

[1.2] Xác định quan hệ pháp luật: Chị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh C và được trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên. Vì vậy, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.3] Xác định tư cách đương sự: Chị H khởi kiện đối với anh C. Căn cứ theo khoản 2, khoản 3 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định chị H là nguyên đơn, anh C là bị đơn trong vụ án.

[1.4] Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự quyết định xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhận thấy:

[2.1] Về hôn nhân: Các đương sự tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã P T, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 105, ngày 21 tháng 10 năm 2013. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ, khi chị H yêu cầu ly hôn thì Tòa án căn cứ Luật hôn nhân gia đình để giải quyết.

Trên cơ sở lời khai của đương sự và tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình tiến hành tố tụng thể hiện: Chị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh C. Tuy anh C không đồng ý ly hôn với chị H nhưng trong thời gian sống chung, các đương sự có xảy ra mâu thuẫn, cãi vã với nhau, vợ chồng không tôn trọng và tin tưởng nhau. Bên cạnh đó, trước đây, anh C không lo làm ăn, mà còn tham gia đánh bạc dẫn đến phá tán tài sản trong gia đình; khi vợ chồng xảy ra cự cãi thì anh C đã uống rượu, bia và đánh chị H. Anh C cho rằng những lỗi lầm anh gây ra không đáng để chị H phải ly hôn anh nhưng anh không sửa đổi bản thân, không có biện pháp gì để hàn gắn, xây dựng hạnh phúc gia đình. Mâu thuẫn giữa các đương sự kéo dài đã được Ban ấp địa phương hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả và từ tháng 10/2021, các đương sự đã sống ly thân cho đến nay.

Từ những đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Các đương sự đã vi phạm nghiêm trọng về nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ giữa vợ và chồng; vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình, làm hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không được liên tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Điều 91 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.2] Về con và cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự có 02 (hai) con chung là Tạ Quyết T, sinh ngày 28/10/2013 và Tạ Minh P, sinh ngày 01/11/2016. Khi ly hôn, các đương sự đều yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T và không yêu cầu bên còn lại cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, chị H có công việc và thu nhập ổn định, từ khi vợ chồng sống ly thân cháu T do chị H trực tiếp nuôi dưỡng và cháu T có nguyện vọng được sống cùng với chị H. Để tránh xáo trộn trong cuộc sống, tránh ảnh hưởng đến tâm lý của cháu T nên giao cháu T cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Đối với cháu P, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu P và anh C không phản đối đối với yêu cầu này nên giao cháu P cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở. Vì vậy, giao cháu T và cháu P cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là đúng pháp luật. Chị H không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: Các đương sự khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[3] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật.

[4] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144, 147; khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 235, 238, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Điều 39 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84, 107, 108, 110, 116, 117 và Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điều 85, 89, 91, 92, 93 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

- Điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Hoài Ánh H.

1.1. Về hôn nhân: Chị Trần Hoài Ánh H được ly hôn với anh Tạ Minh C.

1.2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự có 02 (hai) con chung là: Tạ Quyết T, sinh ngày 28/10/2013 và Tạ Minh P, sinh ngày 01/11/2016. Giao cháu T và cháu P cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị H không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không giải quyết.

Các đương sự có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây cản trở. Vì lợi ích của con chung các đương sự có quyền xin thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

1.3. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

1.4. Về nợ chung: Các đương sự khai không có nên Tòa án không giải quyết.

2. Về án phí: Chị Trần Hoài Ánh H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0002038 ngày 20/10/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Chị H đã nộp đủ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thơi hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;