TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 168/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 26 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 199/2022/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148/2022/QĐXX-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 157/2022/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X; nơi cư trú: Thôn 7, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Chu Văn Y; nơi cư trú: Thôn 7, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ghi ngày 03 tháng 5 năm 2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị X (nguyên đơn) khai:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị X và anh Chu Văn Y xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 68 ngày 06 tháng 7 năm 2011. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong lao động, sinh hoạt và nuôi dạy con chung. Anh Y mải chơi không chăm lo đến gia đình, vợ con đãn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Do mâu thuẫn nên từ năm 2014 chị X đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Nay chị X nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị X yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Chu Văn Y.
Về con chung: Chị Nguyễn Thị X khai chị và anh Chu Văn Y có 01 con chung là Chu Hồng Đ, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2011. Từ khi sống ly thân đến nay, chị X là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Ly hôn, chị X có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Chu Hồng Đ.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị X khai chị và anh Y tự thỏa thuận và giao nhận với nhau, nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị X khai chị và anh Chu Văn Y không có tài sản chung, nên chị không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 11 tháng 7 năm 2022 ị đơn là anh Chu Văn Y trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh Chu Văn Y và chị Nguyễn Thị X kết hôn trên cở sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 68 ngày 06 tháng 7 năm 2011. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc nhưng đến khoảng 04 năm nay thì chị X đã bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống. Nay anh Y xác nhận tình cảm vợ chồng giữa anh và chị X không còn nên anh Y yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh Y và chị X được ly hôn.
Về con chung: Anh Chu Văn Y khai anh và chị X có 01 con chung là Chu Hồng Đ, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2011. Hiện con chung do chị X trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn, anh Y có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Chu Hồng Đ.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Anh Y yêu cầu chị X có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung với anh Y mỗi tháng là 5.000.000 đồng.
Về việc chia tài sản: Anh Chu Văn Y khai anh và chị Nguyễn Thị X không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị X và anh Y. Về nội dung vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị X và anh Chu Văn Y đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị X và anh Y được ly hôn. Về con chung: Chị Nguyễn Thị X và anh Chu Văn Y có 01 con chung là Chu Hồng Đ, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2011. Hiện con chung do chị X trực tiếp nuôi dưỡng. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên, nguyện vọng của các đương sự và nguyện vọng của con chung, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho chị Nguyễn Thị X trực tiếp nuôi dưỡng con chung Chu Hồng Đ cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị X không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về tài sản chung: Chị X và anh Y thống nhất khai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Về án phí: Chị Nguyễn Thị X phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp Hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Bị đơn là anh Chu Văn Y có nơi cư trú tại thôn 7, xã L, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị X và bị đơn là anh Chu Văn Y đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng chị X có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Y vắng mặt lần thứ hai không có lý do chính đáng. Căn cứ quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị X và anh Y.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị X và anh Chu Văn Y được xác lập vào năm 2011 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Do mâu thuẫn nên chị X và anh Y hiện đã sống ly thân. Chị X xin ly hôn, anh Y thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn nên anh Y cùng đồng ý ly hôn. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị X và anh Y đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị X và anh Y được ly hôn.
[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị X và anh Chu Văn Y có một con chung là Chu Hồng Đ, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2011, hiện con chung đang sống cùng chị X. Khi ly hôn, chị Hương và anh Y đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện từ khi sống ly thân đến nay, chị X là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và vẫn bảo đảm tốt về mọi mặt. Cháu Chu Hồng Đ có nguyện vọng được mẹ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Vì vậy giao cho chị Nguyễn Thị X được trực tiếp nuôi dưỡng con Chu Hồng Đ đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung.
[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị X khai chị và anh Y tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này.
[5] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị X và anh Chu Văn Y thống nhất khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị X phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị X và anh Chu Văn Y được quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 328 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14; xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị X và anh Chu Văn Y.
2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị X trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Chu Hồng Đ, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2011 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị X phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007745 ngày 07 tháng 6 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị X đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Chị Nguyễn Thị X và anh Chu Văn Y vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 168/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 168/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về