Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 131/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 131/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 119/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2022 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 129/2022/QĐST- HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N; nơi cư trú: Thôn 3, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Trí Đ; nơi cư trú: Thôn 3, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Nguyễn Thị N là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Chị và anh Nguyễn Trí Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 11 tháng 3 năm 2017. Sau lễ cưới, chị N về chung sống cùng anh Đ tại thôn 3, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận và có 01 con chung, đến cuối năm 2021 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng trong sinh hoạt; anh Đ mải chơi, thiếu quan tâm gia đình dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau. Chị N đã về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ tháng 2 năm 2022 cho đến nay. Nay, chị Nguyễn Thị N nhận thấy không còn tình cảm và không thể về đoàn tụ với anh Đ nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Trí Đ. Chị và anh Đ có 01 con chung tên Nguyễn Trí Gia H sinh ngày 23 tháng 8 năm 2018. Khi ly hôn, chị N đề nghị để anh Đ được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Việc cấp dưỡng nuôi con do chị và anh Đ tự thỏa thuận, không đề nghị Tòa án giải quyết. Chị và anh Đ không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Trí Đ là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác, song đến ngày mở phiên tòa anh Đ vẫn không có văn bản trình bày ý kiến về quan hệ hôn nhân, con chung và tài sản chung.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Nguyễn Trí Đ; đề nghị giao con chung tên Nguyễn Trí Gia H cho anh Nguyễn Trí Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của đương sự Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị N được Tòa án triệu tập hợp lệ và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Nguyễn Trí Đ đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về yêu cầu của chị Nguyễn Thị N xin ly hôn với anh Nguyễn Trí Đ Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Trí Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng nên hôn nhân giữa chị N và anh Đ là hôn nhân hợp pháp. Do mâu thuẫn vợ chồng nên chị N làm đơn xin ly hôn với anh Đ. Tài liệu xác minh tại gia đình và tại địa phương thống nhất thể hiện: Cuộc sống chung vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Trí Đ đã phát sinh mâu thuẫn từ cuối năm 2021. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng trong sinh hoạt, vợ chồng trẻ tuổi thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau và xây dựng kinh tế gia đình dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau. Chị N về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Gia đình hai bên đều đã động viên khuyên giải nhưng không có kết quả. Xét thấy, mâu thuẫn giữa chị N và anh Đ là có tồn tại, chị N kiên quyết xin ly hôn. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần triệu tập và tiến hành hòa giải nhưng anh Đ vắng mặt không có lý do, cho thấy anh Đ không thực sự quan tâm đến việc hàn gắn quan hệ vợ chồng.

Từ những căn cứ nêu trên cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị N xin ly hôn anh Nguyễn Trí Đ.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Trí Đ có 01 con chung tên Nguyễn Trí Gia H sinh ngày 23 tháng 8 năm 2018. Khi ly hôn, chị N đề nghị giao cho anh Đ được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Hội đồng xét xử xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định như sau: Kể từ khi vợ chồng ly thân, con chung đều ở cùng với anh Đ; được chăm sóc và học tập đầy đủ. Anh Đ sống cùng nhà với bố mẹ đẻ nên có sự hỗ trợ từ phía gia đình trong việc chăm sóc con chung. Chị N có đề nghị Tòa án giao con chung cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng nhằm mục đích ổn định cuộc sống của con.

Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện thực hiện việc nuôi con của đương sự và quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét giao cho anh Nguyễn Trí Đ trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Chị Nguyễn Thị N không đề nghị Tòa án giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con; anh Nguyễn Trí Đ không có ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, chị Nguyễn Thị N khai vợ chồng không có tài sản chung và không đề nghị Tòa án giải quyết. Mặt khác không có lời khai của bị đơn là anh Nguyễn Trí Đ về tài sản chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, chị Nguyễn Thị N phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị N:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Nguyễn Trí Đ.

2. Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Trí Đ trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Trí Gia H, sinh ngày 23 tháng 8 năm 2018 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn: Các đương sự tạm thời không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng cho con.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0007933 ngày 05/5/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Nguyễn Thị N đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Trí Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

106
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 131/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:131/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;