Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 131/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 131/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 68/2021/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2021 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 193/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 212/2021/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1989, nơi ĐKHKTT: Thôn 1, xã D, huyện K, thành phố Hải Phòng, nơi tạm trú: Số 33/136 Phạm Hữu Đ, phường N, quận L, thành phố Hải Phòng; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;

Bị đơn: Anh Đào Văn Đ, sinh năm 1987, nơi ĐKHKTT: Thôn 1, xã D, huyện K, thành phố Hải Phòng; nơi sinh sống: Canada; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn Chị Phạm Thị L trình bày:

Chị và Anh Đào Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã D, huyện K, thành phố Hải Phòng vào ngày 11/10/2011. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống cùng nhau tại thôn 1, xã D, huyện K, thành phố Hải Phòng, vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian. Đến năm 2018, anh Đ sang Canada làm việc. Từ đó đến nay, vợ chồng đã sống ly thân, anh Đ ở Canada, còn chị thì ở Hải Phòng, Việt Nam. Thời gian gần đây, anh Đ không quan tâm đến gia đình, vợ con và cũng không gửi tiền về để chị nuôi các con. Chị và anh Đ mâu thuẫn đã trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Chị và anh Đ có 02 con chung là Đào Phạm Kim A, sinh ngày 27/10/2012 và Đào Phạm Vân A, sinh ngày 01/12/2015. Sau khi ly hôn, chị nhận nuôi cả 02 con vì từ khi anh Đ đi nước ngoài thì chị vẫn chăm sóc tốt cho các con. Từ khi anh Đ sang Canada cũng không gửi tiền về để chị nuôi các con. Về cấp dưỡng nuôi con, chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị và anh Đ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với Anh Đào Văn Đ: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã thông báo cho gia đình anh Đ cung cấp địa chỉ của anh Đ ở Canada và yêu cầu gia đình anh thông báo cho anh biết để gửi lời khai và cung cấp tài liệu, chứng cứ về Tòa án. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng ở nơi cư trú cuối cùng của anh Đ, tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Đ thông qua gia đình anh Đ, gia đình anh Đ cũng đã thông báo cho anh Đ biết. Tuy nhiên, gia đình anh Đ vẫn không thực hiện yêu cầu cung cấp địa chỉ của anh Đ. Gia đình anh Đ cung cấp: Anh Đ vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại nhưng gia đình không biết địa chỉ cụ thể của anh Đ ở Canada nên gia đình anh không thể cung cấp địa chỉ của anh cho Tòa án. Anh Đ đã được gia đình thông báo về việc chị L có yêu cầu ly hôn với anh, hiện do dịch Covid nên anh không thể về Việt Nam để giải quyết vụ án.

Quan điểm của gia đình bị đơn anh Đ thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa anh và chị L đã trầm trọng, hai vợ chồng tình cảm không còn như trước, đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của anh chị.

Tại phiên tòa, Chị Phạm Thị L và Anh Đào Văn Đ đều vắng mặt. Chị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Đ vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai.

Phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và ngh a vụ. Bị đơn Anh Đào Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Chị L và anh Đ xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Du Lễ, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng vào ngày 11/10/2011. Tuy nhiên, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L. Về con chung:

Anh chị có 02 con chung, cháu Đào Phạm Kim A, sinh ngày 27/10/2012 và Đào Phạm Vân A, sinh ngày 01/12/2015; sau ly hôn chị L đề nghị tiếp tục nuôi dưỡng cả 02 con, hiện tại hai cháu được chăm sóc đầy đủ, học tập phát triển bình thường nên đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung là cháu Đào Phạm Kim A và cháu Đào Thị Vân A cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung: Chị L không yêu cầu nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, xét thấy:

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án ly hôn. Bị đơn Anh Đào Văn Đ hiện đang sinh sống tại Canada, nguyên đơn Chị Phạm Thị L sinh sống tại Hải Phòng, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa sơ thẩm, Chị Phạm Thị L và Anh Đào Văn Đ đều vắng mặt, chị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Theo gia đình cung cấp, Anh Đào Văn Đ hiện đang sinh sống tại Canada, anh Đ và gia đình không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh Đ; gia đình anh Đ xác nhận anh vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, gia đình cũng đã thông báo cho anh Đ biết việc chị L khởi kiện về ly hôn với anh Đ tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng. Tòa án đã tiến hành tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cho Anh Đào Văn Đ thông qua gia đình anh, gia đình anh cũng đã cam kết thông báo cho anh các văn bản tố tụng của Tòa án. Vì vậy, trường hợp này được coi là bị đơn cố tình giấu địa chỉ, căn cứ hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân tối cao tiến hành xét xử vắng mặt Anh Đào Văn Đ.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, chị L và anh Đ xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Du Lễ, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng vào ngày 11/10/2011. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc. Đến năm 2018, anh Đ sang Canada lao Đng, từ đó vợ chồng xa cách, anh Đ không còn quan tâm đến gia đình, vợ con, cũng không gửi tiền cấp dưỡng về nuôi dưỡng các con; mâu thuẫn giữa anh chị đã không thể hàn gắn, hai bên gia đình đã hòa giải nhưng không có kết quả. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh Đ đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng đoàn tụ, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của Chị Phạm Thị L.

[4] Về con chung: Anh Đ và chị L có 02 con chung là cháu Đào Phạm Kim A, sinh ngày 27/10/2012 và Đào Phạm Vân A, sinh ngày 01/12/2015; do 02 cháu còn nhỏ và đang đi học và chị L đang chăm sóc tốt cho các cháu nên chị xin được tiếp tục nuôi dưỡng các cháu đến khi trưởng thành; về cấp dưỡng nuôi con thì chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét thấy, anh Đ hiện không rõ nơi cư trú, cháu Kim A và cháu Vân A hiện được chị L chăm sóc phát triển bình thường về tinh thần và thể chất, cần tiếp tục giao cháu Đào Phạm Kim A và cháu Đào Phạm Vân A cho chị L nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con chị L không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị L và anh Đ tự thỏa thuận, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị L là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị L và anh Đ được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Phạm Thị L.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị L được ly hôn với Anh Đào Văn Đ.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Đào Phạm Kim A, sinh ngày 27/10/2012 và cháu Đào Phạm Vân A, sinh ngày 01/12/2015 cho Chị Phạm Thị L tiếp tục nuôi dưỡng đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về tài sản chung: Chị L không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị L phải chịu 300.000 Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai số 0018830 ngày 17/5/2021 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

- Chị Phạm Thị L vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

- Anh Đào Văn Đ vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 131/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:131/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;