TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN KIẾN AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 12/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 31 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 224/2020/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 256/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 328/2021/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn D; nơi cư trú: Tổ Đ 2, phường Đ, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên toà, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Chị Phạm Thị B; nơi cư trú: Tổ 8, Phường T, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là anh Nguyễn Văn D trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Phạm Thị B kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Đa Phúc, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng vào ngày 28 tháng 3 năm 2004. Sau khi kết hôn, anh và chị B về sống chung tại Tổ Đ 2, phường Đ, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn thường xuyên xảy ra cãi nhau, cuộc sống vợ chồng căng thẳng, không hạnh phúc. Khoảng đầu năm 2016 do không giải quyết được mâu thuẫn, anh và chị B đã sống ly thân nhau. Anh và 02 con vẫn sống tại Tổ Đ 2, phường Đ, quận Dương Kinh còn chị B về sống tại Tổ 8, Phường T, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng. Nguyên nhân do quan điểm sống của hai người không hợp nhau, vợ chồng bất đồng nhau về quan điểm sống, Mặc dù đã được gia đình động viên khuyên giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng tình trạng ngày càng trầm trọng hơn. Đến nay anh xác định tình cảm của anh đối với chị Phạm Thị B không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã căng thẳng và trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên anh đề nghị Toà án nhân dân quận Kiến An giải quyết cho anh được ly hôn với chị Phạm Thị B.
Về con chung: Anh và chị Phạm Thị B có 02 con chung là Nguyễn Văn D, sinh ngày 12 tháng 01 năm 2005 và Nguyễn Văn D1, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2009. Cháu D và cháu D1 hiện đang sống cùng với anh. Khi ly hôn anh nhận nuôi 02 con chung đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng: Quá trình tiến hành tố tụng của Tòa án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án: Nguyên đơn chấp hành đầy đủ các quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành đầy đủ các quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự; Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Hội đồng xét xử về cơ bản đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giải quyết cho anh Nguyễn Văn D được ly hôn với chị Phạm Thị B.Về con chung: Giao 02 con chung là Nguyễn Văn D, sinh ngày 12 tháng 01 năm 2005 và Nguyễn Văn D1, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2009 cho anh Nguyễn Văn D trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và về tài sản chung do anh D không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết. Về án phí, buộc anh D phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án: Chị Phạm Thị B là bị đơn, hiện cư trú tại Tổ dân phố số 8, Phường T, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng, vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Tòa án nhân dân quận Kiến An đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng chị Phạm Thị B không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị Phạm Thị B. Anh Nguyễn Văn D đã được Tòa án triệu tập lần 2 nhưng anh D vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn D.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn D và chị Phạm Thị B kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Đa Phúc, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng ngày 28 tháng 3 năm 2004. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Căn cứ vào lời khai của anh Nguyễn Văn D và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, có đủ cơ sở xác định anh Nguyễn Văn D và chị Phạm Thị B trong quá trình chung sống thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, lối sống, tính cách không hợp nhau. Như vậy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Nguyễn Văn D và chị Phạm Thị B đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Văn D là phù hợp pháp luật và thực tế vụ kiện, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về con chung: Anh Nguyễn Văn D và chị Phạm Thị B có 02 con chung là Nguyễn Văn D, sinh ngày 12 tháng 01 năm 2005 và Nguyễn Văn D1, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2009. Cháu Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn D1 hiện đang sống cùng anh Nguyễn Văn D. Quá trình giải quyết vụ án, chị Phạm Thị B không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, không có ý kiến gì đối với yêu cầu của anh Nguyễn Văn D. Lời khai của anh Nguyễn Văn D và tài liệu chứng cứ thể hiện, từ trước đến nay, anh D vẫn chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung, chị B không có trách nhiệm gì. Để đảm bảo cho các cháu Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn D1 có điều kiện chăm sóc và phát triển một cách tốt nhất và cũng là phù hợp với nguyện vọng của các cháu, Hội đồng xét xử quyết định giao 02 con chung là Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn D1 cho anh Nguyễn Văn D trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, do anh D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Đây cũng là quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa.
[5] Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết về tài sản.
[6] Về án phí: Anh Nguyễn Văn D phải nộp 300.000 đồng án phí sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27, Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Nguyễn Văn D ly hôn chị Phạm Thị Bich.
2. Về con chung: Giao 02 con chung là Nguyễn Văn D, sinh ngày 12 tháng 01 năm 2005 và Nguyễn Văn D1, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2009 cho anh Nguyễn Văn D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, do anh Nguyễn Văn D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Anh Nguyễn Văn D phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015119 ngày 27 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Kiến An, thành phố Hải Phòng, anh Nguyễn Văn D đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn D và chị Phạm Thị B có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 12/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 12/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về