Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 12/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 12/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Hôm nay, ngày 04 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 52/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 15/6/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1990; địa chỉ: Đội 2, thôn X, xã X, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Hoàng Sông A, sinh năm 1986; địa chỉ: Đội 2, thôn X, xã X, huyện L, tỉnh Quảng Bình (hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình) có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 20/4/2022, bản tự khai ngày 16/5/2022 và cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị N đều trình bày: Chị và anh Hoàng Sông A tìm hiểu và kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã X, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 07/3/2011.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau được khoảng 08 năm thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không phù hợp, thường xuyên cải vả, xúc phạm lẫn nhau, vì vậy chị N đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ để sống từ tháng 5 năm 2019 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai nữa. Hiện tại, chị N xét thấy tình cảm giữa chị và anh A đã hết nên chị yêu cầu được ly hôn anh A.

Về con chung: Chị N trình bày chị và anh A có 02 con chung là Hoàng Ngọc Á, sinh ngày 09/9/2011 và Hoàng Ngọc D, sinh ngày 31/8/2014. Từ khi vợ chồng sống ly thân các con vẫn ở với chị, nên chị N có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con, chị Nkhông yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con chung với chị, bởi chị có đủ điều kiện để nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, nên chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Hoàng Sông A vắng mặt tại phiên tòa cũng như các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được tống đạt hợp lệ. Tuy nhiên, ngày 27/5/2022 Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trực tiếp đến gặp anh A vì hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Quảng Bình do vi phạm pháp luật. Tại bản tự khai và đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt của anh Hoàng Sông A, trong đơn anh A trình bày:

Về tình cảm: Anh nhất trí xin được ly hôn.

Về con chung: Anh thừa nhận anh và chị N có 02 con chung là Hoàng Ngọc Á, sinh ngày 09/9/2011 và Hoàng Ngọc D, sinh ngày 31/8/2014, nguyện vọng của anh giao cho chị N chăm sóc, nuôi dưỡng, anh A không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, nên anh A không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả hỏi và tranh luận tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn anh Hoàng Sông A đã được Tòa án tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Hiện tại anh A đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình, anh A có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải và yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N và anh Hoàng Sông A đăng ký kết hôn tại UBND xã X, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 07/3/2011 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 8 năm thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không phù hợp nên thường xuyên xảy ra bất hòa, nên hai vợ chồng thường xuyên xích mích cải cọ lẫn nhau. Chị N và anh A sống ly thân từ tháng 5/2019 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai nữa.

Sau khi Tòa án Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, tống đạt trực tiếp cho anh A, nhưng do hiện tại anh A đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Quảng Bình, Tòa án đã trực tiếp gặp anh A lấy lời khai, anh A trình bày hiện tại không thể đến Tòa án để giải quyết việc chị N xin ly hôn nên anh có đơn đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt. Trong đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, anh A trình bày: Anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, sống ly thân nhau đã quá lâu nên anh hoàn toàn nhất trí như ý kiến của chị Nguyễn Thị N.

Xét thấy, tình cảm vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho hai bên ly hôn nhau là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị N, anh A có 02 con chung là Hoàng Ngọc Á, sinh ngày 09/9/2011 và Hoàng Ngọc D, sinh ngày 31/8/2014. Ly hôn chị Nyêu cầu được trực tiếp nuôi cả 2 con và chị không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con chung với chị, bởi chị có đủ điều kiện nuôi con. Qua bản trình bày nguyện vọng ngày 16/5/2022 của con Hoàng Ngọc Á và Hoàng Ngọc D, thì các con có nguyện vọng mong muốn xin được ở với mẹ. Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt của anh A, anh cũng nhất trí giao 2 con cho chị N nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con với chị N vì chị N không yêu cầu. Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận theo nguyện vọng của chị N, giao cho chị được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng 2 con Hoàng Ngọc Á và Hoàng Ngọc D, không buộc anh A cấp dưỡng nuôi con chung với chị N, vì chị N có đủ khả năng, điều kiện nuôi con và không yêu cầu là phù hợp với nguyện vọng của con và phù hợp với các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về tài sản chung: Chị N, anh A không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về án phí: Chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

[2.5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình: Xử cho chị Nguyễn Thị N và anh Hoàng Sông A được ly hôn nhau.

2. Về con chung: Áp dụng các Điều 58, 81, 82, 83, của Luật hôn nhân và gia đình: Xử giao cho chị Nguyễn Thị N được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 2 con Hoàng Ngọc Á, sinh ngày 09/9/2011 và Hoàng Ngọc D, sinh ngày 31/8/2014, anh A không phải cấp dưỡng nuôi con, vì chị N không yêu cầu bởi chị có đủ điều kiện nuôi con. Anh A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị Quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Nguyễn Thị N phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) chị đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án huyện Lệ Thủy theo biên lai số 0004420, ngày 21/4/2022. Chị N đã nộp đủ án phí.

Chị N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (04/7/2022), anh A được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 12/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;