Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 11/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU KÈ, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 11/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 51/2022/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2022 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Thạch Thị T, sinh năm 2000 (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp T, xã H, huyện C, tỉnh T.

- Bị đơn: Anh Huỳnh D, sinh năm 1998 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện C, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 09 tháng 02 năm 2022, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Thạch Thị T là nguyên đơn trình bày: Chị và anh Huỳnh D chung sống với nhau vào năm 2019, trong quá trình chung sống có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong thời gian chung sống có 01 con chung tên Huỳnh Thị Thùy L, sinh ngày 24/01/2020. Nguyên nhân mâu thuẫn dẫn tới ly hôn là do tính tình không hợp nhau, thường xuyên cãi nhau, hôn nhân trầm trọng không thể kéo dài, chị không còn tình cảm với anh D đã ly thân nhau được khoảng 02 năm nay.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Thạch Thị T yêu cầu ly hôn với anh Huỳnh D;

- Về con chung: Trước đây chị Thạch Thị T yêu cầu nuôi con chung tên Huỳnh Thị Thùy L, sinh ngày 24/01/2020, chị yêu cầu cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền là 750.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Nay chị Thạch Thị T yêu cầu nuôi con chung tên Huỳnh Thị Thùy L, sinh ngày 24/01/2020, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Thạch Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị Thạch Thị T khai không có nợ chung.

Đối với bị đơn anh Huỳnh D: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho anh D, nhưng anh D cố tình vắng mặt nên Tòa án phải giao cho người thân theo quy định của pháp luật, anh D không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, không nêu ý kiến của mình. Vì vậy Tòa án chỉ tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ đối với anh D và không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa hôm nay anh D vẫn vắng mặt, nên HĐXX quyết định xét xử vắng mặt anh D. Chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện là được ly hôn với anh Huỳnh D.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cầu Kè phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng thì nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn anh D chưa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Căn cứ trên cơ sở các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Thạch Thị T. Xử cho chị Thạch Thị T được ly hôn với anh Huỳnh D.

Về con chung: Giao cho chị Thạch Thị T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Thị Thùy L, sinh ngày 24/01/2020.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Huỳnh D không phải cấp dưỡng nuôi Huỳnh Thị Thùy L, sinh ngày 24/01/2020.

Về tài sản chung: Chị Thạch Thị T không yêu cầu nên không xem xét.

Về nợ chung: Không có nên không xem xét.

Về án phí: Buộc chị Thạch Thị T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Chị Thạch Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Huỳnh D. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và thông báo về các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Huỳnh D hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh D vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng, Hội đồng xét xử nghĩ nên áp dụng Điều 227, khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh D.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh D chung sống với nhau vào năm 2019, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh như vậy là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Chị T cho rằng chị và anh D mâu thuẩn là do vợ bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cự cãi, vợ chồng chung sống không còn hạnh phúc nên chị và anh D đã không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, tình cảm vợ chồng đã không còn, không thể hàn gắn nên chị xin ly hôn với anh Huỳnh D. Vấn đề này thấy rằng: Mâu thuẫn của vợ chồng chị T và anh D bất đồng quan điểm, thường hay cải nhau, chung sống không hạnh phúc, vợ chồng không thể thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không quan tâm lẫn nhau. Mặc khác, anh D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh D vẫn không có mặt và cũng không có ý kiến gửi cho Tòa án. Từ đó thấy rằng anh D đã không còn quan tâm đến mối quan hệ vợ chồng giữa anh và chị T, mặc cho chị T muốn làm gì thì làm đủ để thấy giữa hai người không còn tình nghĩa vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại phiên tòa, chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T xử cho chị T được ly hôn với anh D là phù hợp.

[3] Về con chung: Chị T khai trong quá trình chung sống có 01 con chung là Huỳnh Thị Thùy L, sinh ngày 24/01/2020 hiện do chị T đang trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Thạch Thị T có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và chị không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con, anh D vắng mặt không có ý kiến trình bày. Xét thấy, từ trước đến nay con chung Huỳnh Thị Thùy L, sinh ngày 24/01/2020 sống với chị T và chị T vẫn đảm bảo việc nuôi con tốt. Vì vậy Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị T là giao cháu Huỳnh Thị Thùy L, sinh ngày 24/01/2020 cho chị Thạch Thị T tiếp tục nuôi dưỡng, đồng thời quy định về quyền được tới lui thăm nom con cho anh D sau khi ly hôn là có căn cứ, phù hợp với các Điều 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T đã được Tòa án giải thích các quy định của pháp luật về người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nhưng chị T cho rằng chị có đủ khả năng và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con chung nên chị không có yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con con chung là Huỳnh Thị Thùy L, sinh ngày 24/01/2020 nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét

[6] Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Buộc chị Thạch Thị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Từ những phân tích trên, xét đề nghị của vị kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 147, Điều 227 và Điều 228, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quyd dịnh về mức thu, miễn, giảm nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Thạch Thị T. Chị Thạch Thị T được ly hôn với anh Huỳnh D.

Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị Thạch Thị T. Xử giao con chung tên Huỳnh Thị Thùy L, sinh ngày 24/01/2020 cho chị Thạch Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, anh Huỳnh D không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Chị Thạch Thị T trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh Huỳnh D trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Huỳnh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung là Huỳnh Thị Thùy L, sinh ngày 24/01/2020.

Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Buộc chị Thạch Thị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng; nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0007897 ngày 09 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cầu Kè. Chị T đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 11/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Kè - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;