Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 11/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THIỆU HÓA, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 11/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 165/2021/TLST- HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2021 về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2022, giữa các đương S:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M Th, sinh năm 1981 Địa chỉ: Số A3/55 Bùi Thị Từ Nhiên, phường Đông Hải 1, quận Hải An, thành phố Hải Phòng.

Bị đơn: Anh Hoàng Ph S, sinh năm 1980 Địa chỉ: Thôn Kh H, xã Th D, huyện Thiệu Hóa, Tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa vắng mặt chị Th, anh S. Chị Thu, anh S có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 15/12/2021, bản tự khai ngày 30/12/2021 nguyên đơn chị Nguyễn Thị M Th trình bày:

Chị và anh Hoàng Ph S kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Th D, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 09/10/2009. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau về tính tình và bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không được, nên vợ chồng sống ly thần nhau từ tháng 11/2016 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị Thu xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Th đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Hoàng Ph S.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Hoàng B A, sinh ngày 25/6/2010 và cháu Hoàng Kh M, sinh ngày 20/8/2016. Hiện nay các cháu đang ở với chị Thu. Ly hôn chị Thu có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, chị Thu không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và công nợ: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản trình bày quan điểm ngày 03/01/2022 anh Hoàng Ph S trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị M Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 09/10/2009 tại Ủy ban nhân dân xã Th D, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được hơn 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng thường xuyên sống xa nhau, nên vợ chồng thiếu gắn kết, thiếu quan tâm nhau, bất đồng ý kiến trong cuộc sống. Cả hai đã cố gắng nhiều để hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Vợ chồng sống ly thân nhau 04 năm nay. Nay cô Th làm đơn xin ly hôn, anh S xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nếu keeos dài chỉ làm khổ cho cả hai bên nên anh S cũng đồng ý ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Hoàng B A, sinh ngày 25/6/2010 và cháu Hoàng Kh M, sinh ngày 20/8/2016. Lâu nay các cháu đang ở với cô Thu. Do hiện tại anh S đang bị bệnh không có thời gian chăm sóc các con nên anh S đồng ý với ý kiến chị Th. Anh S nhường cả hai con chung cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, anh S đồng ý không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và công nợ: Anh S không yêu cầu Tòa án giải quyết Quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân huyện Thiệu Hóa đã tống đạt thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải theo Bộ luật tố tụng dân sự hợp lệ cho anh Hoàng Ph S, nhưng anh S không đến Tòa án. Vì vậy Tòa án không tiến hành tổ chức phiên hòa giải giữa chị Thu và anh Đông được, thuộc trường hợp không thể tiến hành phiên hòa giải theo khoản 1 điều 207 Bộ luật TTDS Tại phiên tòa vắng mặt chị Thu, anh S. Chị Th và anh S đều đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Trong đơn xin xét xử vắng mặt chị Th vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn anh Hoàng Ph S, về con chung chị Th đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung là cháu Hoàng B A, sinh ngày 25/6/2010 và cháu Hoàng Kh M, sinh ngày 20/8/2016, chị Th không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chị Th không yêu cầu giải quyết. Trong đơn xin xét xử vắng mặt anh Hoàng Ph S vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày anh đồng ý ly hôn với chị Nguyễn Thị M Th; Về con chung do anh đang bị bệnh nên anh S đồng ý giao cả 02 con chung cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung về nghĩa vụ đối với con anh sẽ có trách nhiệm riêng với con. Về tài sản và công nợ anh S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Thiệu Hóa có quan điểm: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm mở phiên tòa xét xử, thấy rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thiệu Hóa không có yêu cầu hoặc kiến nghị gì cần khắc phục vi phạm về tố tụng.

Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; khoản 1 điều 39; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Khoản 1, Điều 56; các Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Về hôn nhân: đề nghị xử cho chị Nguyễn Thị M Th được ly hôn anh Hoàng Ph S.

Về con chung: Đề nghị giao cháu Hoàng B A, sinh ngày 25/6/2010 và cháu Hoàng Kh M, sinh ngày 20/8/2016 cho chị Thu trực tiếp nuôi dưỡng, anh S không phải cấp dưỡng nuôi chon con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy;

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị M Th khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Hoàng Ph S, anh S có hộ khẩu và nơi cứ trú tại Thôn Khánh Hội, xã Th D, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nên căn cứ vào khoản 1 điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Chị Nguyễn Thị M Th và anh Hoàng Ph S đã được tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ, chị Thu, anh S đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Thu và anh S.

[2]. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị M Th và anh Hoàng Ph S kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Th D, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 09/10/2009 và không vi phạm các điều cấm của luật hôn nhân gia đình như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được 05 năm, thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau về tính tình và bất đồng quan điểm sống, mặt khác vợ chồng sống xa nhau nên thiếu S gắn kết của vợ chồng, thiếu S quan tâm nhau. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên vợ chồng sống ly thân nhau từ năm 2016 đến nay, không ai quan tâm đến ai, như vậy chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã thực S trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Quá trình giải quyết vụ án cũng như trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt chị Thu đều đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Hoàng Ph S. Do đó, căn cứ khoản 1 điều 56 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị Th được ly hôn anh S là phù hợp.

[3]. Về con chung: Quá trình giải quyết vụ án chị Th và anh S đều thừa nhận vợ chồng có 02 con chung là cháu Hoàng B A, sinh ngày 25/6/2010 và cháu Hoàng Kh M, sinh ngày 20/8/2016. Quá trình giải quyết vụ án chị Thu và anh S đều có quan điểm đề nghị giao cả hai cháu là Hoàng B A, sinh ngày 25/6/2010 và cháu Hoàng Kh M, sinh ngày 20/8/2016 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng. Mặt khác tại bản tự khai 17/3/2022 cháu Hoàng B A trình bày nguyện vọng được ở với mẹ nếu bố mẹ ly hôn. Như vậy căn cứ vào nguyện vọng của các bên và của con, Hội đồng xét xử xét thấy giao cả hai cháu Hoàng B A, sinh ngày 25/6/2010 và cháu Hoàng Kh M, sinh ngày 20/8/2016 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con chưa thành niên là trách nhiệm của người làm cha, làm mẹ, song quá trình giải quyết vụ án và trong đơn xin xét xử vắng mặt Th không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Việc không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung của chị Th là hoàn toàn tự nguyện. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy thấy giao cả hai cháu Hoàng B A, sinh ngày 25/6/2010 và cháu Hoàng Kh M, sinh ngày 20/8/2016 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, anh S không phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp.

[4]. Về tài sản và công nợ: Chị Th, anh S không yêu cầu nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Th phải chịu án phí dân S sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; khoản 1 điều 39; khoản 1 điều 228; điều 271; điều 273; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1, Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6, Điều 9; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị M Th ly hôn anh Hoàng Ph S.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung cháu Hoàng B A, sinh ngày 25/6/2010 và cháu Hoàng Kh M, sinh ngày 20/8/2016 cho chị Thu trực tiếp nuôi dưỡng. Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Thu.

Anh S có quyền đi lại, thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị M Th phải chịu tiền án phí sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số AA/2021/0005767 ngày 30/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân S huyện Thiệu Hóa. (Chị Th đã nộp đủ án phí).

3. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Chị Th, anh S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 11/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thiệu Hoá - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;