Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 11/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU NGANG, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 11/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 3 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 75/2022/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 21/02/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 09/3/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Thạch Thị Th, sinh năm 1995 (có mặt)

Địa chị: Ấp Gi, xã K, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Th: Ông Phạm Minh L, là Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, tỉnh Trà Vinh (có mặt).

- Bị đơn: Sơn Sô Đ, sinh năm 1995 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp Gi, xã K, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/12/2021, quá trình giải quyết, cũng như tại phiên tòa nguyên đơn Thạch Thị Th cũng như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Th trình bày và có yêu cầu như sau:

- Về hôn nhân: Vào năm 2011 chị Thắm và anh Sơn Sô Đ quen biết, tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân, đến năm 2016 có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Trong thời gian sống chung vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn cải vả do anh Đ không quan tâm lo gia đình, chị Th nhiều lần khuyên để anh Đ sửa đổi tính tình lo cho gia đình nhưng anh Đ không sửa đổi mà thường xuyên cải vả nhau và anh Đ còn đánh chị nên chị Th vầ anh Đ sống riêng từ tháng 9/2020 đến nay. Sau khi sống riêng anh Đ có yêu cầu hàn gắn nhưng chị Th thấy không còn tin tưởng, không còn tình cảm nên không tạo điều kiện để hàn gắn lại. Nay cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc chị Th yêu cầu ly hôn với anh Sơn Sô Đ.

- Về con chung tên Sơn Chanh Tr, sinh ngày 26/6/2013 và Sơn Thiên Â, sinh ngày 12/6/2019. Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết chị Th yêu cầu nuôi các con; tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay chị Th thay đổi yêu cầu về việc nuôi con, chị Th yêu cầu được nuôi con tên Sơn Chanh Tr và để anh Đ nuôi con tên Sơn Thiên Â, do hiện nay anh Đ đang nuôi Thiên Â.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Th không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết.

- Về tài sản chung của vợ chồng và số nợ phải thu, phải trả: Chị Th không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra chị Th không có yêu cầu nào khác.

Bị đơn Sơn Sô Đ vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, quá trình giải quyết anh Đ có lời khai như sau:

- Về hôn nhân: Anh và chị Th chung sống có đăng ký kết hôn theo quy định. Trong thời gian chung sống giữa anh và chị Th có mâu thuẫn cải vả do anh không quan tâm chăm lo gia đình và mâu thuẫn về chỗ ở, anh Đ yêu cầu vợ chồng về ấp Gi xã K sống không đi làm thuê nhưng chị Th không đồng ý nên anh Đ về nhà ở ấp Gi, xã K sống từ khoảng tháng 6/2020 đến nay. Sau khi sống riêng anh Đ có tìm cách hàn gắn lại và hứa sửa đổi tính tình nhưng chị Th không đồng ý. Anh Đ xác định còn thương chị Th nên không đồng ý ly hôn.

- Về con chung tên Sơn Chanh Tr, sinh ngày 26/6/2013, Sơn Thiên Â, sinh ngày 12/6/2019, anh Đ đồng ý để chị Th được quyền nuôi các con.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Đ không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết.

- Về tài sản chung của vợ chồng và số nợ phải thu, phải trả: Anh Đ không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra không có yêu cầu nào khác.

Quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Thạch Thị Th phân tích chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xét thấy giữa chị Th và anh Đ chung sống có mâu thuẫn nhưng các bên không tìm cách hàn gắn, dung hòa, mâu thuẫn ngày càng gay gắt, chị Th xác định không còn tình cảm nên yêu cầu ly hôn nên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết ly hôn theo yêu cầu của chị Th; về con chung tên Sơn Chanh Tr, sinh ngày 26/6/2013 và Sơn Thiên Â, sinh ngày 12/6/2019, hiện chị Th đang nuôi Sơn Chanh Tr, anh Đ đang nuôi Sơn Thiên  nên đề nghị giao chị Th nuôi con tên Sơn Chanh Tr theo nguyện vọng của con và giao anh Đ nuôi con tên Sơn Thiên  theo ý kiến tự nguyện của chị Th; về cấp dưỡng nuôi con, tài sản và nợ chung chị Th và anh Đ không tranh chấp nên đề nghị không xét.

Lời phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Về thủ tục thụ lý hồ sơ vụ án, xác định quan hệ pháp luật, xác định người tham gia tố tụng, thành phần phiên họp, thành phần hòa giải và thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm đều thực hiện đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng trình tự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các văn bản tố tụng từ khi nhận đơn cho đến khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử đều tống đạt đầy đủ, hợp lệ cho các đương sự và xét thấy việc chấp hành pháp luật của bị đơn là chưa đúng.

- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 81 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị Th được ly hôn với anh Đ. Về con chung tên Sơn Chanh Tr, sinh ngày 26/6/2013 và Sơn Thiên Â, sinh ngày 12/6/2019 đề nghị giao chị Th nuôi con tên Sơn Chanh Tr theo nguyện vọng của con và giao anh Đ nuôi con tên Sơn Thiên Â; Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung các đương sự không tranh chấp nên đề nghị không xem xét; Về án phí hôn nhân sơ thẩm, đề nghị áp dụng Điều 12, 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xét miễn án phí cho chị Th theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét thấy anh Sơn Sô Đ đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng cố ý vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Đ.

[2] Về quan hệ pháp luật: Xét đơn khởi kiện của chị Thạch Thị Th tranh chấp ly hôn và tranh chấp nuôi con đối với anh Sơn Sô Đ; địa chỉ tại ấp Gi, xã K, huyện C nên xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn và tranh chấp nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn:

- Về hôn nhân: Xét thấy giữa chị Thạch Thị Th và anh Sơn Sô Đ chung sống có đăng ký kết hôn đúng quy định pháp luật. Căn cứ vào Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình, xác định hôn nhân của chị Th và anh Đ là hợp pháp.

Quá trình chung sống giữa chị Th và anh Đ bất đồng quan điểm, anh chị không còn chung sống với nhau khoảng tháng 9/2020 đến nay. Anh Đ thừa nhận trong cuộc sống vợ chồng có mâu thuẫn do anh không quan tâm, chăm lo gia đình và mâu thuẫn về chỗ ở nhưng anh còn thương chị Th và hứa sửa đổi tính tình lo cho gia đình nên yêu cầu hàn gắn lại, không đồng ý ly hôn; chị Th nhận thấy tính tình anh Đ không thay đổi, không còn tin tưởng anh Đ và xác định tình cảm vợ chồng không hàn gắn được. Xét thấy, sau khi chị Th và anh Đ không còn chung sống với nhau đến nay thì mỗi người có cuộc sống riêng, anh Đ có tìm cách hòa giải để hàn gắn lại nhưng chị Th không đồng ý và phía Tòa án đã mở phiên hòa giải, động viên đoàn tụ nhưng không thành. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị Th và anh Đ ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Thạch Thị Th.

- Về quyền nuôi con: Chị Th và anh Đ xác định có hai con chung tên Sơn Chanh Tr, sinh ngày 26/6/2013 và Sơn Thiên Â, sinh ngày 12/6/2019. Quá trình giải quyết con chung tên Sơn Chanh Tr có nguyện vọng sốn chung với mẹ, chị Th đồng ý nuôi con tên Sơn Chanh Tr và đồng ý để anh Đ nuôi con tên Sơn Thiên  do anh Đ đang nuôi con và chăm sóc tốt cho con.

Xét thấy, trong thời gian nuôi con thì chị Th và anh Đ đảm bảo cuộc sống của con ổn định về vật chất, tinh thần. Căn cứ vào Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao chị Th được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Sơn Chanh Tr và giao anh Đ được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên con Sơn Thiên  sau khi ly hôn là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Quá trình giải quyết vụ án chị Th và anh Đ không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

- Về tài sản chung của vợ chồng và số nợ phải thu, phải trả: Xét thấy trong đơn khởi kiện và quá trình giải quyết chị Th và anh Đ không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Xét chị Th là người dân tộc thiểu số đang sống ở ấp Gi, xã K, huyện C, tỉnh Trà Vinh là ấp có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, chị Th có đơn xin miễn tạm ứng án phí và án phí đúng quy định. Căn cứ vào Điều 12, 14, 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí nên xét miễn tiền án phí cho chị Th.

[5] Xét quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là phù hợp nhận định Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Xét lời phát biểu của Kiểm sát viên về quan điểm giải quyết vụ án là phù hợp nhận định Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 4 Điều 147, Điều 235, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điều 12, 14, 15, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Thạch Thị Th.

- Về hôn nhân: Cho chị Thạch Thị Th ly hôn với anh Sơn Sô Đ.

- Về quyền nuôi con: Giao chị Thạch Thị Th được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con tên Sơn Chanh Tr, sinh ngày 26/6/2013 và giao anh Sơn Sô Đ được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con tên Sơn Thiên Â, sinh ngày 12/6/2019.

Chị Thạch Thị Th và anh Sơn Sô Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Quá trình giải quyết vụ án chị Th và anh Đ không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

- Về tài sản chung của vợ chồng và số nợ phải thu, phải trả: Xét thấy trong đơn khởi kiện và quá trình giải quyết chị Th và anh Đ không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

- Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Miễn tiền án phí cho chị Thạch Thị Th.

- Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 11/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Ngang - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;